-
DÒNG NỮ XITÔ (O.CIST: CISTERCIAN NUNS)
Lược sử: Nữ đan viện Xitô Thánh Mẫu Vĩnh Phước được thiết lập tại Bàu Sen, Phước Lý, năm 1972, do quyết định của Tổng hội dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, với sự chấp thuận của Đức giám mục giáo phận Xuân Lộc, dưới sự bảo trợ của đan viện Thánh Mẫu Khiết Tâm Phước Lý.
Năm 1991, đan viện được di chuyển về giáo xứ Ngọc Đồng, Hố Nai. Năm 1998, được Toà Thánh cho chính thức gia nhập vào Hội dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam.
Bổn mạng: Lễ Đức Maria Vô Nhiễm, 8-12.
Mục đích: Chuyên về đời sống chiêm niệm, góp phần cứu rỗi các linh hồn bằng đời sống cầu nguyện và hy sinh theo gương Thánh Gia Nazareth.
Châm ngôn: Cầu nguyện và lao động (Ora et labora).
Hoạt động: Các nữ tu làm việc tông đồ qua tiếp khách tĩnh tâm và kiếm sống bằng các ngành nghề: làm chén lễ, icone, sơn mài, bánh lễ, chăn nuôi và canh tác hoa màu.
Nhân sự: Tại Việt Nam có 3 cộng đoàn với 33 đan sĩ khấn trọn, 13 khấn tạm, 12 tập sinh, 12 dự tu.
Điều kiện tuyển chọn:
- Thật lòng tìm Chúa.
- Có sức khoẻ tinh thần và thể lý lành mạnh.
- Đủ 18 tuổi và tốt nghiệp phổ thông trung học.
- Có đủ giấy tờ theo Giáo luật và dân sự.
Địa chỉ Nhà Mẹ:
105/10, Kp 9, P. Tân Hoà,
TP. Biên Hoà, Đồng Nai.
Đt: 061 984644.
Email: xitotmvp@hcm.vnn.vn
Trụ sở tại TP. Hồ Chí Minh:
46/10/68 Nguyễn Cửu Vân, P.17, Bình Thạnh, Tp.HCM
Đt: 08 8996812
Bề trên đương nhiệm: Chị Maria Gioan TC Phạm Ghy Tạc.
-
CHỊ EM ĐA MINH VIỆT NAM (O.P. - DOMINICAN SISTERS)
Lược sử: Thời kỳ sơ khai: Chị em Đa Minh Việt Nam được nảy sinh từ cánh đồng truyền giáo thấm máu đào của các anh hùng tử đạo, trong đó có các phần tử gia đình Đa Minh. Từ hậu bán thế kỷ XVII, các thừa sai Đa Minh sang Việt Nam truyền giáo tại Đàng Ngoài (1676), đã quy tụ chị em và thành lập các cộng đoàn chị em Đa Minh trong địa phận Đông Đàng Ngoài, sau trở thành khu vực địa phận dòng (nay là các giáo phận Hải Phòng, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Bùi Chu, Thái Bình).
Nhà Mụ Đa Minh đầu tiên được thiết lập tại Trung Linh năm 1715, do cha chính dòng Bustamante Hy O.P. Chị em mặc y phục đơn giản như các phụ nữ đương thời nhưng có đội khăn lúp, sống thành cộng đoàn, giữ ba lời khuyên Phúc Âm, theo luật chung gọi là Lề luật Nhà Mụ. Mỗi nhà là một cộng đoàn biệt lập dưới quyền điều khiển của bà Mụ (từ “Bà Mụ” ở Việt Nam vào thế kỷ XVII - XVIII để chỉ những phụ nữ học thức và thuộc dòng tôn thất nơi cung đình). Bà Mụ thường phải là người đứng tuổi, nhân đức, kinh nghiệm, do cha chính dòng cắt cử hoặc chị em ái mộ và được cha chính chấp thuận. Năm 1860, đã có bản Lề Luật bằng chữ Nôm, dựa theo Luật dòng nữ Đa Minh Tây Ban Nha và sửa đổi cho thích nghi với hoàn cảnh Giáo Hội và xã hội địa phương. Mãi đến thập niên 1920, mới có tên Nhà Phước thay cho Nhà Mụ.
Từ thuở sơ khai, chị em Đa Minh vốn tự lực cánh sinh bằng công sức lao động của chính mình. Các chị thường làm nghề dệt, may, xay lúa, giã gạo, bào chế thuốc đông y gia truyền. Nếp sống thanh bần, đạm bạc nhưng các chị rất tích cực cộng tác với các linh mục trong việc tông đồ mục vụ. Các chị nhận dạy kinh bổn cho các nữ dự tòng, chia thành từng đôi đi bán thuốc dạo trong các làng lương dân, hầu có dịp tiếp xúc và loan báo Tin Mừng, rửa tội trẻ em nguy tử, hoặc chuộc lấy đem về nuôi tại nhà thiên thần. Nhà Thiên Thần gọi là Cô nhi viện, thường nuôi trẻ mồ côi bị bỏ rơi từ sơ sinh đến 12 tuổi. (Năm 1916, địa phận Trung [Bùi Chu] có 15 nhà, nuôi 3.353 em) hoặc nhà thương (nhà thương chỉ chung các viện bác ái: bệnh viện, dưỡng lão viện, trại phong. Năm 1916, địa phận Trung có 17 nhà).
Trong thời cấm đạo, các chị là những người thông tin, liên lạc thư từ, lo liệu cơm nước thuốc men, và có khi đem Mình Thánh Chúa cho các đấng chịu giam cầm vì đức tin.
Sau thời bách hại, chị em được phái đến các làng mạc trong giáo phận, giúp các phụ nữ bị ép bỏ đạo cưới chồng ngoại giáo (khoảng 400 người trở lại vào dịp này). Trong thời bình yên, chị em dạy học mẫu giáo (riêng tại Bùi Chu có 2 trường dành cho nữ sinh) và tham gia công tác xã hội (phục vụ nhà thiên thần và nhà thương).
Trải qua các giai đoạn lịch sử, nhất là trong thời kỳ bách hại, chị em Đa Minh đã lập nhiều công lớn đối với Giáo hội Việt Nam, khiến các Công đồng Kẻ Sặt (1900), Kẻ Sở (1912), và Đông Dương (Hà Nội, 1934) đều có lời khen ngợi. Chính Công đồng Kẻ Sở và Công đồng Miền Đông Dương, điều 104-106, đã khuyến khích các đấng bản quyền liên hệ, sớm lo liệu cho chị em các nhà phước trở thành dòng có lời khấn theo Giáo luật (Bộ Giáo luật năm 1917) và Quy tắc các dòng địa phận của Thánh Bộ Truyền giáo. Số chị em ngày càng phát triển và có mặt khắp các địa phận dòng, riêng Bùi Chu, thời Đức cha Munagorri Trung, O.P. (1907-1936) có 17 nhà. Năm 1916, địa phận Trung có 475 chị nhà phước Đa Minh; năm 1933, có 780 chị (x. Lm. Bùi Đức Sinh, O.P., Dòng Đa Minh Trên Đất Việt, quyển II, Sài Gòn 1995, tr. 219-225).
Thời kỳ lập dòng: Theo ý Toà Thánh và nguyện vọng của các Công đồng Miền tại Việt Nam, Đức cha Đôminicô Maria Hồ Ngọc Cẩn, giám mục giáo phận Bùi Chu (1935-1948), đã lấy một phần nhân sự và tài sản của các nhà phước Mến Thánh Giá và Đa Minh để ký sắc lệnh lập dòng Con Đức Mẹ Mân Côi Bùi Chu ngày 8-9-1946 và chọn nhà phước Đa Minh Trung Linh làm Nhà Mẹ cho dòng mới. Địa phận Bùi Chu lúc ấy có 14 Nhà Phước Đa Minh và 2 Nhà Phước Mến Thánh Giá là Kiên Lao và Liên Thượng. Trong số các Nhà Phước Đa Minh thì 7 nhà: Trung Linh, Kiên Lao, Ninh Cường, Liên Nội, Liên Ngoại, Liên Thượng, Hạ Linh và một số chị em thuộc 7 nhà còn lại đã gia nhập dòng mới.
Ngày 4-8-1950, sau khi được tấn phong giám mục và cai quản địa phận Bùi Chu, kế vị Đức cha Hồ Ngọc Cẩn, công việc đầu tiên của Đức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi thực hiện cho giáo phận là cải tổ 7 nhà phước Đa Minh còn lại (Bùi Chu, Phú Nhai, Trung Lao, Quần Cống, Sa Châu, Trung Lễ và Liễu Đề) thành dòng nữ Đa Minh theo Giáo luật và chọn nhà phước Bùi Chu (bên cạnh Toà giám mục Bùi Chu) làm Nhà Mẹ.
Đức cha đã nhờ cha Alonso Bá, O.P., là giáo sư thần học và giáo luật ở Giáo hoàng Chủng viện Thánh Albertô Nam Định, soạn thảo Nội quy cho chị em. Bản Nội quy - gồm Tu luật Thánh Augustin và Hiến pháp soạn theo Hiến pháp dòng Anh Em Thuyết Giáo - đã đệ đạt lên Toà Thánh ngày 19-11-1950 và được Hồng y Petrus Fumasoni Biondi, Bộ trưởng Thánh Bộ Truyền giáo, châu phê ngày 21-3-1951, qua công văn Prot. số 1.243/51.
Ngày 30-4-1951, Đức cha Phêrô Maria tuyên bố sắc chỉ lập dòng tại Bùi Chu, với danh xưng là Dòng Chị Em Đa Minh Việt Nam, thánh hiệu Catarina Siena, thuộc quyền giám mục giáo phận.
Bổn mạng chính: Thánh Catarina Siena, 29-4.
Châm ngôn và đặc sủng: Theo tinh thần Thánh Tổ phụ Đa Minh: “Nói với Chúa để rồi đi nói về Chúa”, tức là “chia sẻ cho tha nhân những gì mình đã chiêm niệm”.
Mục đích: Làm vinh danh Chúa và thánh hoá bản thân bằng cách khấn giữ ba lời khuyên Phúc Âm, theo Hiến pháp Chị Em Đa Minh Việt Nam, Chỉ nam dòng và tinh thần Tu luật Thánh Augustin. Mục đích riêng: truyền giáo và giáo dục.
Hoạt động:
- Truyền giáo cho lương dân,
- Giáo dục đức tin và văn hoá cho thanh thiếu niên,
- Tham gia các hoạt động thăng tiến con người, đặc biệt quan tâm đến những người nghèo khổ, các bệnh nhân và những người bị áp bức,
- Chị em còn làm việc tông đồ bằng cầu nguyện, hy sinh và chứng tá đời sống.
Điều kiện tuyển chọn:
- Dưới 25 tuổi,
- Sức khoẻ tốt, không mắc bệnh di truyền hay khuyết tật,
- Trí phán đoán lành mạnh, khả năng tiếp thu tương xứng với trình độ văn hoá hay lứa tuổi,
- Khả năng sống cộng đoàn và tinh thần trách nhiệm.
HỘI DÒNG NỮ ĐA MINH BÙI CHU
Lược sử: Dòng Chị Em Đa Minh Việt Nam thành lập tại Bùi Chu năm 1951, quen gọi là dòng Đa Minh Bùi Chu, vừa được 3 lớp khấn với tổng số 55 nữ tu thì xảy ra biến cố lịch sử năm 1954, lúc này còn 49 chị. (Theo Lịch Sử Dòng, tập I: trước khi di cư chỉ còn 49 chị vì 2 chị đã chết, 4 chị xuất). Phần đông chị em đã di cư vào Miền Nam và định cư tại Tam Hiệp, Biên Hoà, nay thuộc giáo phận Xuân Lộc. Những chị em ở lại (12 chị khấn) đã gặp nhiều khó khăn về mọi mặt để có thể tồn tại và phát triển. Mãi đến ngày 30-4-1959, dòng mới có lớp khấn tiếp theo.
Từ khi đất nước thống nhất (1975) đến nay, dòng đã có nhiều thuận lợi. Dòng phát triển mạnh về nhân sự, tinh thần và vật chất: số người tu ngày một gia tăng, cơ sở được trùng tu tái thiết, chị em được học hành thăng tiến.
Bổn mạng: Thánh nữ Catarina Siena, 29-4.
Mục đích: Làm vinh danh Chúa và thánh hoá bản thân, bằng cách giữ ba lời khuyên Phúc Âm: khiết tịnh, khó nghèo, vâng phục theo tinh thần tu luật Thánh Augustinô, Hiến pháp, Chỉ Nam Dòng chị em Đa Minh Việt Nam và truyền thống tốt đẹp do tiền nhân để lại.
Linh đạo: Sống theo tinh thần Thánh phụ Đa Minh: chiêm niệm và hiến thân lo việc cứu rỗi các linh hồn bằng việc phục vụ chân lý đức tin, nhất là người nghèo.
Số cộng đoàn: Hiện nay, ngoài tu viện Trung ương Bùi Chu, dòng còn 3 tu viện lớn: Phú Nhai, Quần Cống, Trung Lao và 37 tu sở phục vụ các giáo xứ trong giáo phận Bùi Chu.
Nhân sự: Khấn trọn 140, khấn tạm 60, tập sinh 12, thỉnh sinh 60 và đệ tử 120.
Địa chỉ Nhà Mẹ:
xã Xuân Ngọc, huyện Xuân Trường,
tỉnh Nam Định. Đt: 0350 886138
Email: hddmbuichu@yahoo.co.uk.
Bề trên đương nhiệm: Nt. Lidwina Đinh Thị Sáng, sinh 1942, khấn 1960.
HỘI DÒNG ĐA MINH TAM HIỆP
Lược sử: Dòng Nữ Đa Minh Việt Nam (Bùi Chu), thánh hiệu Catarina Siena, được Đức giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi ban sắc lập dòng vào ngày 30-4-1951 tại Bùi Chu, Bắc Việt.
Ngày 30-6-1945, do biến cố chung của đất nước, Mẹ Bề trên tiên khởi Maria Emilia Nguyễn Thị Sê cùng hai chị Tổng cố vấn, chị Tổng quản lý, chị Giám tập, và một số chị em giã từ cái nôi khai sinh Chị Em Đa Minh Việt Nam, cùng đồng bào miền Bắc di cư vào Nam.
Ngày 27-10-1955, chị em đến định cư ở vùng đất Tam Hiệp, Biên Hoà (tu viện Trung ương hiện nay) để tiếp tục đời tu Đa Minh, sống và loan báo Tin Mừng cho mọi người trên quê hương mới.
Năm 1962, trong tình hình chung của Giáo hội và xã hội Việt Nam, Thánh Bộ Truyền giáo đã ra Thông tư quyết định địa phương hoá các dòng tu.
Tuy nhiên, đến năm 1995, dòng nữ Đa Minh Việt Nam (bộ phận di cư vào Nam) mới chính thức biệt lập về mặt pháp lý, với danh xưng: Hội dòng Đa Minh Tam Hiệp.
Cơ sở: hiện có 21 cộng đoàn phục vụ trong 6 giáo phận: Xuân Lộc, TP. Hồ Chí Minh, Đà Lạt, Long Xuyên, Ban Mê Thuột và Cần Thơ.
Nhân sự: tính đến tháng 4-2003, Hội dòng có 235 nữ tu: khấn trọn 161, khấn tạm 74, tập sinh 12, tiền tập 14, thỉnh sinh 125.
Địa chỉ Nhà Mẹ:
134/4 Khu phố 5, P. Tam Hiệp,
TP. Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai.
Đt: 061 813995
Email: daminh-th@hcm.vnn.vn
Bề trên: Nt. Têrêxa Nguyễn Thị Mừng, sinh 1949, khấn 1974.
Trụ sở tại Tp.HCM
377/22 Lê Quang Định, P.5, Bình Thạnh, Tp.HCM
Đt: 08 8941296
Phụ trách: Nt. Maria Phạm Thị Hội
-
HỘI DÒNG ĐA MINH THÁNH TÂM
Lược sử: Thể theo ý các Đấng Bản quyền các giáo phận Bắc Ninh, Hải Phòng, Thái Bình và Lạng Sơn, Toà Thánh chấp thuận cho thành lập một hội dòng nữ Đa Minh chung.
Ngày 30-10-1955, chị em thuộc các giáo phận trên đã tập trung về Trung tâm Huấn luyện Nữ tu Đa Minh tại cây số 9, Hố Nai, Biên Hoà, dưới sự điều hành của cha Giuse Hoàng Mạnh Hiền, O.P.
Ngày 21-1-1958, Đức cha Simon Hoà Nguyễn Văn Hiền, giám mục giáo phận Sài Gòn, đã ký sắc lệnh thành lập một hội dòng mới tại giáo xứ Thánh Tâm, Hố Nai, và - theo ý Toà Thánh - vẫn mang danh là Dòng Chị Em Đa Minh Việt Nam, thánh hiệu Catarina Sienna, và cùng giữ bản Hiến pháp Toà Thánh đã châu phê ngày 21-3-1951.
Cơ sở: Gồm 14 cộng đoàn tại 3 giáo phận: Xuân Lộc 9, TP. HCM 4 và 1 thí điểm truyền giáo tại Long Xuyên.
Nhân sự: Tại Việt Nam có 188 tu sĩ (khấn trọn 141, khấn tạm 47), 18 tập sinh, 16 tiền tập, 63 thỉnh sinh. Tại Hoa Kỳ có 91 tu sĩ (khấn trọn 62, khấn tạm 29), 5 tập sinh, 13 tiền tập, 9 thỉnh sinh.
Trụ sở chính:
155/5 khu phố 9, P. Tân Biên,
TP. Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai.
Đt: 061 881263
Email: dndmttcl@hcm.vnn.vn
Bề trên đương nhiệm: Nt. Maria Trần Thị Sâm, sinh 1947, khấn 1964.
HỘI DÒNG ĐA MINH ROSA LIMA (XUÂN HIỆP)
Lược sử: Năm 1954, các chị em nhà phước Đa Minh gốc Thái Bình, Bắc Ninh và Hải Phòng di cư vào Nam. Năm 1973, các nhà phước này được sáp nhập và cải tổ trở thành Hội dòng nữ Đa Minh thánh hiệu Rosa Lima, do Đức Tổng giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình ký sắc lệnh thành lập ngày 1-1-1973.
Trụ sở trung ương dòng đặt tại Xuân Hiệp, Thủ Đức, thuộc tổng giáo phận Sài Gòn, nay là tổng giáo phận TP. HCM, được chia thành 3 miền: miền Mân Côi (Thái Bình), miền Vô Nhiễm (Bắc Ninh), miền Mông Triệu (Hải Phòng).
Bổn mạng: Thánh Rosa Lima, 23-8.
Cơ sở: Hội dòng có 57 cộng đoàn trên 7 giáo phận: TP. HCM 15, Xuân Lộc 19, Phú Cường 4, Đà Lạt 4, Thái Bình 12, Bắc Ninh 2, Hà Nội 1.
Nhân sự: khấn trọn 362, khấn tạm 142, tập sinh 19, thỉnh sinh 250.
Địa chỉ: Trụ sở chính:
37/5B, khu phố 1, phường Linh Xuân, Thủ Đức, TP.HCM.
Đt: 7240586. Fax: 84 08 8974748
Email: domrosa@saigonnet.vn
Miền Mẹ Mân Côi (Thái Bình)
Bổn mạng: Mẹ Mân Côi (7-10)
Trụ sở: 106/5 Kp 5, P.Tân Biên, TP. Biên Hoà, Đồng Nai.
Đt: 061 881263.
Email: dmtb@hcm.vnn.vn
Miền Mẹ Vô Nhiễm (Bắc Ninh)
Bổn mạng: Mẹ Vô nhiễm (8-12)
Trụ sở: 20 Dân Chủ, Kp. 4, p. Bình Thọ, Q. Thủ Đức, TP. HCM.
Đt: 08 8960284
Email: immaculate@hcm.vnn.vn
Miền Mẹ Mông Triệu (Hải Phòng)
Bổn mạng: Mẹ Lên trời (15-8)
Trụ sở: 53 đường 25, Kp. 2, p. Linh Đông, Q. Thủ Đức, TP. HCM.
Đt: 08 8971338
Email: assumption@hcm.vnn.vn
Bề trên đương nhiệm: Nt. Agnès Nguyễn Thị Thịnh, sinh 1950, khấn 1971.
HỘI DÒNG ĐA MINH LẠNG SƠN
Lược sử: Sắc lệnh của Thánh Bộ Truyền giáo ban hành ngày 30-12-1913 thành lập giáo phận Lạng Sơn. Đức cha Bertrand Cothonay, O.P. (tỉnh dòng Lyon) phụ trách giáo phận với chức Phủ doãn Tông toà, ngài đã xin một số chị em nhà phước Đa Minh Bùi Chu lên giúp. Năm 1918, nhà phước Đa Minh Lạng Sơn đầu tiên được thành lập tại Cửa Nam, thị trấn Lạng Sơn.
Năm 1955, do sáng kiến của các linh mục Đa Minh Việt Nam, nhà phước Đa Minh Lạng Sơn được Thánh Bộ Truyền giáo chấp thuận cho trở thành dòng Đa Minh Lạng Sơn.
Từ năm 1958, cha chính địa phận Lạng Sơn di cư đã sáp nhập tạm thời với dòng Đa Minh Bùi Chu Tam Hiệp trong tinh thần và đường lối huấn luyện.
Từ năm 1975, dòng Đa Minh Lạng Sơn tách khỏi Đa Minh Tam Hiệp. Ngày 8-12-1978, dòng được Đức Tổng giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình phê chuẩn là Hội dòng nữ Đa Minh thánh hiệu Đức Mẹ Mân Côi, thuộc tổng giáo phận TP. HCM.
Bổn mạng: Lễ Đức Mẹ Mân Côi, 7-10.
Cơ sở: 16 cộng đoàn trên 5 giáo phận: TP. HCM 4, Long Xuyên 5, Đà Lạt 2, Xuân Lộc 1, Lạng Sơn 4 trong các lĩnh vực: truyền giáo, giáo dục, mục vụ giáo xứ và bác ái xã hội.
Nhân sự: nữ tu khấn 119, tập sinh 10, tiền tập 13, thỉnh sinh 120.
Địa chỉ Nhà Mẹ:
25/2 Lê Đức Thọ P. 16, Q. Gò Vấp,
TP. HCM.
Đt: 08 8911067
Fax: 84 08 9962895
Email: langson20@hcm.fpt.vn
Bề trên đương nhiệm: Têrêxa Đỗ Thị Minh, sinh 1941, khấn 1961.
LIÊN HIỆP CÁC HỘI DÒNG NỮ ĐA MINH VIỆT NAM (LHNĐMVN)
LHNĐMVN gồm các hội dòng thành viên: Đa Minh Bùi Chu, Đa Minh Tam Hiệp, Đa Minh Thánh Tâm, Đa Minh Rosa Lima (Xuân Hiệp) và Đa Minh Lạng Sơn.
Sau 40 năm, kể từ khi Hội dòng nữ Đa Minh Việt Nam tiên khởi được thành lập tại Bùi Chu ngày 30-4-1951, các đại diện của 4 Hội dòng nữ Đa Minh Tam Hiệp, Thánh Tâm, Rosa Lima (Xuân Hiệp) và Lạng Sơn đã cùng ngồi lại bên nhau trong một phiên họp đặc biệt ngày 2-5-1991 tại tu viện Đa Minh Ba Chuông (Trụ sở Giám tỉnh Đa Minh Việt Nam). Sau phiên họp này, chị em đã quyết tâm
- thống nhất một kiểu tu phục,
- cùng nhau soạn thảo một bản Hiến pháp chung.
Sau khi các Hội dòng nữ Đa Minh Việt Nam đã thống nhất tu phục (8-8-1991) và hoàn tất bản dự thảo Hiến pháp chung (12-1995), Chúa Thánh Thần còn thúc đẩy chị em tiến thêm một bước nữa: thành lập LHNĐMVN. Ngày 10-3-1996 đã được chọn là ngày khai sinh Liên hiệp.
Chị em cũng bắt đầu thử nghiệm hiến pháp chung và cử hành cùng một nghi thức khấn dòng từ 29-4-1997.
Hiện tình LHNĐMVN: 5 hội dòng với tổng số 1.226 nữ tu (849 khấn trọn, 377 khấn tạm), hoạt động trong 124 cộng đoàn, thuộc 11 giáo phận. Chị em đang thi hành sứ vụ tại 30 trường mẫu giáo, 25 lớp học tình thương, 8 lớp dạy nghề, 10 trạm xá, 4 nhà dưỡng lão, 2 nhà mồ côi và 23 thí điểm truyền giáo (15 cho người Kinh và 8 điểm cho người dân tộc). Ngoài ra, còn có số các thành viên trong giai đoạn đào tạo sơ khởi: 71 tập sinh, 75 tiền tập sinh và 762 thỉnh sinh.
Lớp Thần học Liên hiệp dành cho nữ sinh viên Đa Minh và một vài hội dòng khác bắt đầu từ niên khoá 1996-1997 với 95 sinh viên, và số sinh viên mỗi năm đều tăng cho đến hôm nay.
Mỗi năm, Ban Thường vụ Liên hiệp đều tổ chức các khoá tĩnh tâm, bồi dưỡng cho các chị phụ trách hội dòng, phụ trách cộng đoàn cũng như các chị phụ trách đào tạo.
Chị em Đa Minh Việt Nam cũng đã có 2 điểm truyền giáo chung ở Giáo phận Cần Thơ (1996) và Giáo phận Long Xuyên (1999).
-
DÒNG CHỊ EM ĐỨC MẸ NGƯỜI NGHÈO
Lược sử: Từ tháng 7-1990, một số chị em cùng chung ý hướng, muốn sống đời dâng hiến trong chiêm niệm và dấn thân phục vụ người nghèo, đã tìm hiểu Huynh Đoàn Đức MẹNgười Nghèo. Qua cha Bảo Tịnh Vương Đình Bích, Tổng Phụ trách quốc tế toàn dòng, chị em nói lên niềm mong muốn thành lập nhánh nữ thuộc dòng Đức Mẹ Người Nghèo tại Việt Nam.
Ngày 14-9-1992 (Lễ Suy Tôn Thánh Giá), cộng đoàn đã chính thức được Đức Tgm. Phaolô Nguyễn Văn Bình cho phép hình thành và tiếp tục thử nghiệm đời sống ơn gọi theo luật dòng Đức Mẹ Người Nghèo, dưới sự hướng dẫn của cha Bảo Tịnh Vương Đình Bích là người sáng lập.
Tôn chỉ: Sống ơn gọi đan tu, thực hành Phúc Âm giữa lòng xã hội, thích nghi với hoàn cảnh mới của thế giới người nghèo, nên thường được thiết lập tại môi trường xã hội bình dân, gần gũi với những con người nghèo khổ, bất hạnh.
Mục đích: Thực tập ơn gọi chuyên nguyện, qua mọi sinh hoạt đời thường tại nhà và giữa xã hội theo những đòi hỏi của Tin Mừng Chúa Giêsu đối với mọi người, cách riêng với thành phần bất hạnh.
Phương châm: “Vì Chúa Giêsu và đạo Phúc Âm của Người”.
Hoạt động: Theo tôn chỉ và mục đích của dòng, chị em quan niệm sống ơn gọi dâng hiến như một nhà Tập suốt đời, mong muốn trở thành những người học trò của Chúa Giêsu và đi theo Người tới cùng. Kết hợp thống nhất hai khía cạnh chuyên nguyện và hoạt động tông đồ, phụng sự Chúa trong nếp sống huynh đệ và trong các hình thức dấn thân phục vụ những người nghèo khổ bất hạnh. Chị em đi theo Chúa Giêsu góp phần tạo điều kiện cho người què đi được, người câm nói được, người mù đọc được và người thương tật được lành lặn như chính Chúa Giêsu đã làm và dạy cho các môn đệ của Người: “làm gì cho anh em bé mọn là làm cho chính Thầy”.
Nhân sự: khấn trọn 2, khấn tạm 1, thỉnh sinh 3, dự tu 3.
Điều kiện gia nhập:
Từ 18 đến 25 tuổi, tốt nghiệp phổ thông trung học, đủ sức khoẻ cho một nếp sống bình dân lao động, có chí hướng sống ơn gọi đan tu phục vụ người nghèo.
Địa chỉ:
7/7 Nguyễn Văn Lạc, P. 21, Q. Bình
Thạnh, TP.HCM. Đt: 08 8400928.
Phụ trách: Chị Maria Nguyễn Thị Thu Vân, sinh 1956, khấn dòng 31-12-1995
-
DÒNG CON ĐỨC MẸ ĐI VIẾNG (F.M.V.: FILIAE MARIAE VISITAE)
Lược sử: Năm 1924, cha Giuse Trần Văn Trang sáng lập tại làng Kim Đôi, cách thành phố Huế 15km, với tên gọi là Dòng Mến Thánh Giá Kim Đôi. Năm 1938, Hội dòng được cải tổ theo Giáo luật với lời khấn đơn, tạm và trọn đời và mang danh xưng là Dòng Mến Thánh Giá Phục Hưng. Năm 1965, vì chiến tranh, phải dời lên Bãi Dâu, Phú Hậu, Huế. Năm 1967, đổi tên dòng Mến Thánh Giá Phục Hưng thành dòng Con Đức Mẹ Đi Viếng.
Bổn mạng: Lễ Đức Mẹ Đi Viếng, 31-5.
Châm ngôn - Mục đích:
- Sống tinh thần nghèo khó, đơn sơ, phó thác.
- Sống tinh thần truyền giáo theo gương Mẹ Thăm Viếng, đặc biệt đến với người nghèo và anh em tôn giáo bạn.
Hoạt động chính:
- Cộng tác với các linh mục trong hoạt động mục vụ truyền giáo ở các giáo xứ.
- Giáo dục thăng tiến giới trẻ, giới nữ trong lĩnh vực văn hoá, xã hội, luân lý và đức tin.
- Cầu nguyện, thăm viếng, truyền giáo cho anh chị em lương dân; giúp đỡ phát triển đời sống tinh thần và vật chất cho người nghèo.
Nhân sự: gồm 17 cộng đoàn trên 5 giáo phận (Huế, TP. HCM, Xuân Lộc, Nha Trang, Đà Nẵng) với số chị em: vĩnh khấn 89, kinh viện 41, tập thỉnh sinh 24, đệ tử 124, dự tu 95.
Điều kiện tuyển chọn:
- Thư giới thiệu của linh mục hay người có trách nhiệm trong dòng,
- Gia đình đạo đức tốt,
- Có lòng đạo đức, quảng đại dấn thân, yêu mến người nghèo khổ,
- Trí phán đoán lành mạnh,
- Sức khoẻ tốt, không mang bệnh di truyền,
- Tốt nghiệp lớp 12 trở lên (trường hợp đặc biệt xét riêng),
- Tuổi tối đa 22 (trường hợp đặc biệt xét riêng).
Địa chỉ Nhà Mẹ:
483A Chi Lăng, Huế. P. Phú Hậu, Huế
Đt: 054 524022.
Email: fmvhue@dng.vnn.vn
fmvhue@pmail.vnn.vn
Bề trên đương nhiệm: M. Pauline Têrêxa Nguyễn Thị Diệu Cảnh, sinh 1940, khấn dòng 1961.
Trụ sở tại Tp.HCM
31 đường số 5, K.P 1, P. Hiệp Bình Chánh, Thủ Đức.
Đt: 08 7269402
Phụ trách: Nt. M. Cécile Lê Thị Bình.
-
DÒNG CON ĐỨC MẸ MÂN CÔI BÙI CHU
Lược sử: Đức cha Đôminicô Maria Hồ Ngọc Cẩn, giám mục giáo phận Bùi Chu, sáng lập ngày 8-9-1946. Dòng thuộc quyền địa phận. Dòng đang phát triển thì do biến cố năm 1954, một số chị em di cư vào Nam lập trụ sở tại Chí Hoà, Sài Gòn. Tại miền Bắc, từ năm 1954, dòng gặp nhiều khó khăn. Kể từ năm 1980, dòng đang có chiều hướng phát triển.
Bổn mạng: Lễ Đức Mẹ Mân Côi, 7-10.
Mục đích:
“Với Mẹ, vì Mẹ Mân Côi,
Yêu thương phục vụ ấy đời của con”.
Châm ngôn đó nói lên linh đạo dòng: Nhờ Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu qua cách sống các mầu nhiệm Mân Côi.
Hoạt động: Dòng có trụ sở Nhà Mẹ tại Trung Linh với 5 cộng đoàn: Ninh Cường, Kiên Lao, Liên Thượng, Tứ Trùng, Xuân Đài và 30 địa điểm làm việc tông đồ tại các xứ họ trong giáo phận Bùi Chu.
Nhân sự: Khấn trọn 75, khấn tạm 73, tập sinh 20, tiền tập 14, đệ tử 110.
Địa chỉ Nhà Mẹ:
Trung Linh, xã Xuân Ngọc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Đt: 0350 886156.
Bề trên đương nhiệm: Nt. Maria Imelda Vũ Thị Tươi.
-
DÒNG CON ĐỨC MẸ MÂN CÔI CHÍ HOÀ (F.M.S.R.: CONGREGATIO FILIARUM MARIAE A SACROSANCTO ROSARIO)
Lược sử: Do Đức cha Đôminicô Maria Hồ Ngọc Cẩn, giám mục giáo phận Bùi Chu, sáng lập ngày 8-9-1946, tại Trung Linh, Bùi Chu.
Năm 1954, thiết lập trụ sở chính tại họ Chí Hoà, giáo phận Sài Gòn, với 91 nữ tu và 13 tập sinh.
Năm 1962, theo thông tư của Thánh Bộ Truyền giáo, Dòng Con Đức Mẹ Mân Côi Bùi Chu tại miền Nam thuộc Tổng giáo phận Sài Gòn.
Ngày 20-2-1967, thiết lập cộng đoàn Mân Côi Hoa Kỳ, tại chủng viện St. Charles Borromeo, Tgp. Philadelphia.
Ngày 4-7-1995, Bộ Tu sĩ (Các Hội dòng Tận hiến và các Tu đoàn Tông đồ) gửi văn thư cho biết Dòng Mân Côi Miền Nam vẫn thuộc tổng giáo phận TP. Hồ Chí Minh như Thánh Bộ Truyền giáo đã quyết định năm 1962. Kể từ đây, dòng mang tên: Dòng Con Đức Mẹ Mân Côi Chí Hoà.
Bổn mạng: Lễ Đức Mẹ Mân Côi, 7-10.
Châm ngôn: Yêu thương - Phục vụ.
Mục đích: Cộng tác vào sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội qua các phương tiện: đời sống chứng tá, giáo dục, từ thiện, xã hội, mục vụ, loan báo Tin Mừng.
Số cộng đoàn ở Việt Nam: 24 cộng đoàn phục vụ, 4 viện huấn luyện (Đệ tử viện, Tập viện, Học viện), 1 nhà hưu dưỡng.
Nhân sự: Số tu sĩ ở VN: khấn trọn 151, khấn tạm 55, tập sinh 22, thỉnh sinh 12, đệ tử 90. Ở hải ngoại: 52.
Điều kiện gia nhập:
- Tốt nghiệp PTTH hoặc học đại học, tuổi từ 17-24,
- Có sức khoẻ đủ để sống ơn gọi dòng Mân Côi,
- Có khả năng trưởng thành và phán đoán lành mạnh,
- Có thiện chí muốn đáp lại tiếng Chúa mời gọi.
Địa chỉ Nhà Mẹ:
Tu Viện Mân Côi Chí Hoà
94 Bành Văn Trân, P.7 Q. Tân Bình,
TP. HCM. Đt: 08 8640000.
Fax: 84 08 9700524.
Email: fmsr@hcm.vnn.vn
Bề trên: Nt. Marie Cécile Vũ Thị Thanh, sinh 1946, khấn dòng 1964.
-
DÒNG CON ĐỨC MẸ NAM VANG
Lược sử: Hội dòng Con Đức Mẹ Nam Vang có nguồn gốc từ dòng Mến Thánh Giá tại Siam (Thái Lan), do Đức cha Lambert de la Motte thành lập.
Năm 1862, Đức cha Bouchut, giám mục tông toà giáo phận Phnom Penh dời dòng Chị Em Mến Thánh Giá về Pinnhéalu, rồi sau lại đưa về Russeykeo, Phnom Penh, Cambodia. Lúc đó các chị sống hình thức như một tu hội, không có lời khấn.
Năm 1942, Đức cha Gioan Baotixita Chabalier, giám mục tông toà giáo phận Phnom Penh, xin Toà Thánh nâng tu hội lên thành hội dòng giáo phận, với tên mới là dòng Con Đức Mẹ Nam Vang (Les Filles de Marie de Phnom Penh), chị em có lời khấn đơn tạm và trọn đời theo Giáo luật, mang tu phục khác hẳn tu phục Mến Thánh Giá.
Ngày 8-9-1943, ngày Toà Thánh chấp thuận đơn xin cải tổ, được coi là ngày khai sinh của dòng. Lớp tập đầu tiên theo Giáo luật bắt đầu từ tháng 11-1943.
Năm 1970, vì biến cố chính trị tại Cambodia, tất cả người Việt Nam phải hồi hương. Mọi thành viên trong dòng đều là người Việt, nên chị em đã về nước và được Đức cha Giuse Phạm Văn Thiên, giám mục giáo phận Phú Cường, đón nhận. Từ đây, Hội dòng Con Đức Mẹ Nam Vang là một dòng nữ của giáo phận Phú Cường.
Bổn mạng: Lễ Mẹ Thiên Chúa, 1-1.
Châm ngôn: Nhờ Mẹ Maria đến cùng Chúa Giêsu (Ad Jesum per Mariam).
Mục đích: Vinh danh Thiên Chúa, thánh hoá bản thân, làm việc tông đồ.
Hoạt động:
- Phục vụ giáo xứ: dạy giáo lý trẻ em, dạy tân tòng,
- Dạy học mầm non, đặc biệt trẻ nghèo,
- Chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
Nhân sự: gồm 20 cộng đoàn, với số chị em: khấn trọn 56, khấn tạm 23, tập sinh 11, dự tu 58.
Điều kiện tuyển chọn:
- Nữ sinh Công giáo,
- Tuổi từ 16 đến 23,
- Học lực hết cấp 2, chứng chỉ đầy đủ,
- Trí khôn lành mạnh, sức khoẻ tốt,
- Xuất thân từ gia đình đạo đức,
- Có giấy giới thiệu của linh mục trực thuộc, và có ý kiến của cha mẹ.
- Đương sự đến gặp trực tiếp bề trên dòng tại địa chỉ Nhà Mẹ.
Địa chỉ Nhà Mẹ:
396 Cách Mạng Tháng 8, Phú
Cường, Thủ Dầu Một, Bình Dương.
Đt: 0650 824915.
Bề trên đương nhiệm: Nt. Placidie Nguyễn Thị Lượt, sinh 9-8-1948, khấn dòng 21-6-1977.
Trụ sở tại Tp. HCM
20/16 Kỳ Đồng, P.9, Q.3, Tp.HCM
Đt: 08 9319867
Phụ trách: Nt. Maria Augustin Nguyễn Thị Ri.
-
DÒNG CON ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM
Lược sử: Được thành lập ngày 8-9-1920 tại Kim Long, Huế do Đức cha Eugène Marie Joseph Allys Lý (1852-1936) và Đức cha Alexandre Paul Marie Chabanon Giáo (1873-1936).
Bổn mạng: Lễ Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, 8-12.
Nhân sự: Dòng có 38 cộng đoàn hoạt động tại 7 giáo phận (Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, Kontum, Ban Mê Thuột, Xuân Lộc và TP. Hồ Chí Minh), với số chị em: khấn trọn 151, khấn tạm 60, tập sinh 23, tiền tập 28, đệ tử 200.
Điều kiện tuyển chọn: Thông thường phải trải qua giai đoạn tìm hiểu và được xác nhận có đủ các điều kiện:
- Sinh bởi cha mẹ có hôn phối hợp pháp,
- Thuộc gia đình đạo đức,
- Sức khoẻ bình thường,
- Hạnh kiểm tốt,
- Trình độ văn hoá: cấp III trở lên,
- Tuổi tối đa: 23 tuổi, từ 24 tuổi trở lên phải có phép đặc biệt của bề trên.
- Có giấy giới thiệu của một linh mục hoặc một người đáng tín nhiệm.
Địa chỉ Nhà Mẹ:
32 Kim Long - Huế.
Đt: 054 528484
Email: ttkl@dng.vnn.vn
Trụ sở: 22 đường số 3, KP 4, Bình Chiểu, Thủ Đức, TP. HCM. Đt: 08 8963294.
Bề trên đương nhiệm: Nt. Marie Consolata Bùi Thị Bông, sinh 1943, vĩnh khấn 1969.
Phụ trách trụ sở: Maria Victorina Trần Thị Lam Hồng.
-
DÒNG KHIẾT TÂM ĐỨC MẸ
Lược sử: Thành lập ngày 15-9-1958 tại Võ Cang, Vĩnh Trung, TP. Nha Trang, Khánh Hoà, Việt Nam do Đức cha Marcel Piquet (Lợi), MEP, giám mục tiên khởi giáo phận Nha Trang.
Tước hiệu và bổn mạng: “Khiết Tâm Đức Mẹ” kính vào thứ Bảy, sau lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Châm ngôn: Thừa kế tinh thần đấng sáng lập, chị em dòng Khiết Tâm cố gắng thực hiện châm ngôn: “Để trong mọi sự, Thiên Chúa được hết lòng yêu mến” trong mọi lĩnh vực của đời sống thánh hiến.
Sứ mạng: Chị em Khiết Tâm Đức Mẹ phục vụ Giáo Hội và xã hội, ưu tiên giáo phận Nha Trang, thể hiện qua những hoạt động chính, theo ý hướng đấng sáng lập là:
- Giáo dục văn hoá cho giới trẻ,
- Thực hiện công tác xã hội,
- Giáo dục đức tin cho mọi người, đặc biệt các dự tòng và trẻ em,
- Thi hành những công tác mục vụ.
Nhân sự: Nữ tu khấn trọn 121, khấn tạm 64, tập sinh và tiền tập 49, chuẩn sinh 20, thanh tuyển sinh 150, dự tu 50.
Môi trường phục vụ: Hội dòng Khiết Tâm Đức Mẹ hiện có 29 cộng đoàn, phục vụ tại các giáo xứ, Toà Giám mục, nhà hưu dưỡng linh mục và Đại Chủng viện Sao Biển, thuộc 4 giáo phận: Nha Trang, Phan Thiết, TP. Hồ Chí Minh và Ban Mê Thuột.
Điều kiện tuyển chọn:
- Có ơn gọi sống đời tu dòng,
- Có điều kiện sức khoẻ tốt,
- Tốt nghiệp PTTH,
- Dưới 22 tuổi.
Địa chỉ Nhà Mẹ:
Dòng Khiết Tâm Đức Mẹ
Xứ Võ Cang, h. Vĩnh Trung,
TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà.
Đt: 058 890193.
Email: hanhhuong@dng.vnn.vn
Tổng phụ trách đương nhiệm: Nt. Eulalie Hạnh Hương, sinh 5-10-1945, khấn dòng 6-7-1966.