+ Trả Lời Ðề Tài
Trang 5/6 ĐầuĐầu ... 3456 cuốicuối
Hiện kết quả từ 41 tới 50 của 51

Chủ đề: Vị thánh trong ngày!

  1. #41
    Teresa Nhỏ Bé's Avatar
    Trạng thái :   Teresa Nhỏ Bé đã thoát
    Tham gia : Jul 2011
    Bài gửi : 249
    Tên Thánh:
    Teresa Hài Đồng Giêsu
    Tên thật:
    Trần Thị Thanh Hà
    Đến từ: Giáo phận Bà Rịa
    Sở thích: Nhiều quá kể không hết......
    Nghề nghiệp: Việc không tên.....
    Cảm ơn
    3,454
    Được cảm ơn 1,788 lần
    trong 369 bài viết
    Ngày 05-04

    Thánh VINH SƠN FERRER




    (1357-1419)


    Lược sử

    Sự phân hóa trong Giáo Hội ngày nay chỉ là cơn gió nhẹ so với trận cuồng phong đã xé Giáo Hội ra từng mảnh trong thời Thánh Vinh Sơn Ferrer. Ngài là quan thầy của những người xây cất vì ngài nổi tiếng đã "xây dựng" và kiên cường Giáo Hội qua công việc rao giảng, dạy dỗ của ngài.

    Sinh ở Valencia, Tây Ban Nha năm 1357, khi lên 17 tuổi, bất kể sự chống đối của cha mẹ, ngài gia nhập Dòng Đa Minh trong thành phố gần nơi sinh trưởng. Sau khi hoàn tất việc học một cách tốt đẹp, ngài được thụ phong linh mục bởi Đức Hồng Y Phêrô "de Luna" -- là người đã ảnh hưởng lớn đến cuộc đời ngài.

    Với bản tính hăng say, ngài tận tụy thi hành nhân đức khắc khổ theo quy luật dòng. Sau khi được thụ phong linh mục không lâu, ngài được chọn làm bề trên tu viện Đa Minh ở Valencia.

    Cuộc Đại Ly Giáo Tây Phương đã chia cắt Kitô Giáo, lúc đầu với hai giáo hoàng, sau đó là ba giáo hoàng. Đức Clêmentê ở Avignon nước Pháp, Đức Urbanô ở Rôma. Cha Vinh Sơn tin rằng việc bầu cử Đức Urbanô là vô giá trị (mặc dù Thánh Catarina ở Siena là người hỗ trợ đức giáo hoàng Rôma).

    Cha Vinh Sơn được Đức Bênêđictô triệu về làm việc trong Tòa Ân Giải Tối Cao và là Trưởng Điện Tông Tòa. Nhưng vị giáo hoàng ở Avignon không chịu từ chức trong khi tất cả các ứng viên trong mật nghị hồng y đều thề như vậy. Và Đức Bênêđictô vẫn ngoan cố bất kể sự ruồng bỏ của vua nước Pháp và hầu hết các hồng y.

    Cha Vinh Sơn vỡ mộng và lâm bệnh nặng, nhưng sau cùng ngài đã đảm nhận công việc "rao giảng Đức Kitô cho thế giới," dù rằng bất cứ sự canh tân nào trong Giáo Hội thời ấy đều tùy thuộc vào việc hàn gắn sự ly giáo. Ngài nhấn mạnh đến nhu cầu sám hối và khuyên nhủ mọi người hãy lo sợ ngày phán xét. (Ngài có tên là "Thiên Thần của Sự Phán Xét").

    Cha Vinh Sơn sống cho đến ngày được chứng kiến sự chấm dứt ly giáo, với việc bầu cử tân giáo hoàng là Đức Martin V.

    Cha từ trần ngày 5 tháng Tư 1419 và được phong thánh năm 1455.


    Lờ
    i Bàn

    Sự chia cắt trong Giáo Hội thời Thánh Vinh Sơn Ferrer quả thật là một tai họa -- 36 năm trường với hai "thủ lãnh." Chúng ta không thể tưởng tượng được điều gì sẽ xảy ra cho Giáo Hội ngày nay nếu, trong một thời gian dài như vậy, một nửa theo các giáo hoàng ở Rôma, và một nửa khác theo số giáo hoàng "chính thức", tỉ như ở Rio de Janeiro. Quả thật đó là một phép lạ khi thời gian lụn bại ấy với những khối đá kiêu ngạo và ngu dốt, đầy tham vọng đã kéo dài không lâu. Chúng ta tin rằng "chân lý thì hùng mạnh, và sẽ thắng theá" -- mặc dù đôi khi phải mất một thời gian.
    ***
    SUY NIỆM
    (của Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ)


    Suy niệm 1: Phân hóa


    Sự phân hóa trong Giáo Hội ngày nay chỉ là cơn gió nhẹ so với trận cuồng phong đã xé Giáo Hội ra từng mảnh trong thời Thánh Vinh Sơn Ferrer.

    Sự chia cắt trong Giáo Hội thời Thánh Vinh Sơn Ferrer quả thật là một tai họa -- 36 năm trường với hai "thủ lãnh." Chúng ta không thể tưởng tượng được điều gì sẽ xảy ra cho Giáo Hội ngày nay nếu, trong một thời gian dài như vậy, một nửa theo các giáo hoàng ở Rôma, và một nửa khác theo số giáo hoàng "chính thức", tỉ như ở Rio de Janeiro.

    Quả thật đó là một phép lạ khi thời gian lụn bại ấy với những khối đá kiêu ngạo và ngu dốt, đầy tham vọng đã kéo dài không lâu. Chúng ta tin rằng "chân lý thì hùng mạnh, và sẽ thắng the" -- mặc dù đôi khi phải mất một thời gian.


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sáng suốt nhận ra chân lý và sống chết vì chân lý.

    Suy niệm 2: Xây dựng


    Thánh Vinh Sơn là quan thầy của những người xây cất vì ngài nổi tiếng đã "xây dựng" và kiên cường Giáo Hội qua công việc rao giảng, dạy dỗ của ngài.

    Ngài nổi tiếng về việc xây dựng, nhưng không phải xây dựng những công trình vật chất mà là công trình thiêng liêng vốn là tòa nhà của Giáo Hội qua công việc rao giảng, dạy dỗ của ngài.

    Đó cũng là tâm huyết cả cuộc đời Đức Giêsu. Ngài không quan tâm xây dựng một ngôi nhà ở, mà chấp nhận không có nơi tựa đầu (Mt 8,20), để rồi dành thời gian ba năm rao giảng, để xây dựng tòa nhà Giáo Hội kiên cố đến mức ngay cả quyền lực tử thần cũng không phá nổi (Mt 16,16,18).


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chú tâm tô điểm đền thờ tâm hồn mình thành một viên đá rắn chắc gia tăng sự kiên vững của tòa nhà Giáo Hội.

    Suy niệm 3: Ảnh hưởng


    Sau khi hoàn tất việc học một cách tốt đẹp, Vinh Sơn được thụ phong linh mục bởi Đức Hồng Y Phêrô vốn là người đã ảnh hưởng lớn đến cuộc đời ngài.

    Trong thời gian phục vụ Đức Hồng Y "de Luna", Cha Vinh Sơn thuyết phục người Tây Ban Nha theo Đức Clêmentê. Và khi Đức Clêmentê từ trần, Đức Hồng Y "de Luna" được bầu làm giáo hoàng ở Avignon và lấy tên là Bênêđictô XIII.

    Vào những năm 1408 và 1415, ngài cố gắng nhưng không thành công trong việc thuyết phục người bạn cũ của ngài từ chức. Sau cùng, Cha Vinh Sơn phải kết luận rằng Đức Bênêđictô không phải là giáo hoàng thật. Mặc dù đang bệnh nặng, Cha Vinh Sơn đã lên tòa giảng trước một giáo đoàn mà chính Đức Bênêđictô chủ sự, và mạnh mẽ tố giác người đã tấn phong chức linh mục cho ngài. Từ đó trở đi, Đức Bênêđictô bỏ trốn, để lại sau lưng những người trước đây đã hỗ trợ mình.


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con can đảm bênh vực chân lý ngay cả đối nghịch với ân nhân mình.

    Suy niệm 4: Hăng say


    Với bản tính hăng say, Cha Vinh Sơn tận tụy thi hành nhân đức khắc khổ theo quy luật dòng.

    Là một người có tài rao giảng và hăng say, Cha Vinh Sơn dành 20 năm sau cùng của cuộc đời để loan truyền Tin Mừng ở Tây Ban Nha, Pháp, Thụy Điển, Hòa Lan và vùng Lombardy.

    Lòng nhiệt thành của Đức Giêsu bất chấp cả việc phải thiệt thân. Khi thấy nhà cầu nguyện bị biến thành nơi buôn bán, Ngài đã dùng roi xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ (Ga 2,14-17).

    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhiệt tâm lo việc Chúa hơn việc đời dầu phải thịêt thân.

    Suy niệm 5: Từ chức


    Vị giáo hoàng ở Avignon không chịu từ chức trong khi tất cả các ứng viên trong mật nghị hồng y đều thề như vậy. Đức Bênêđictô XIII vẫn ngoan cố bất kể sự ruồng bỏ của vua nước Pháp và hầu hết các hồng y.

    Tham quyền cố vị vốn là một thứ bệnh ung thư dễ mắc phải và thật bất trị. Dầu là một vị giáo hoàng bất hợp pháp, nhưng Đức Bênêđictô cũng không muốn từ chức.

    Ngược lại là một thánh nhân, Gioan Tiền Hô biết dừng lại đúng lúc thời điểm phải chấm dứt, vì càng bám víu càng gây thiệt hại cho bản thân và tha nhân. Là sứ giả dọn đường, ngài phải rút lui để nhường chỗ cho Đấng Thiên Sai (Ga 3,30), và chính Đức Giêsu cũng ra đi để Đấng Bảo Trợ đến (Ga 16,7.13).


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng bao giờ dính bén khi phải đến lúc ra đi.

    Suy niệm 6: Phán xét


    Cha Vinh Sơn nhấn mạnh đến nhu cầu sám hối và khuyên nhủ mọi người hãy lo sợ ngày phán xét. (Ngài có tên là "Thiên Thần của Sự Phán Xét").

    Cái chết kết thúc đời sống con người, nghĩa là chấm dứt thời gian đón nhận hay chấm dứt ân sủng Thiên Chúa được biểu lộ trong Đức Kitô.

    Khi đề cập đến phán xét, Tân Ước chủ yếu nói về cuộc gặp gỡ chung cuộc với Đức Kitô trong ngày quang lâm, nhưng cũng nhiều lần khẳng định có sự thưởng phạt tức khắc ngay sau khi chết, tùy theo công việc và đức tin của mỗi người (Sách Giáo Lý số 1021).


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn nghỉ đến cuộc phán xét như là kim chỉ nam để sống.
    Thiên Chúa không bao giờ bỏ mặc chúng ta. Người luôn có mặt trong những khốn cùng của chúng ta.

  2. Thành viên đã cảm ơn Teresa Nhỏ Bé vì bài viết này:

    Thánh Thư (05-04-2012)

  3. #42
    Teresa Nhỏ Bé's Avatar
    Trạng thái :   Teresa Nhỏ Bé đã thoát
    Tham gia : Jul 2011
    Bài gửi : 249
    Tên Thánh:
    Teresa Hài Đồng Giêsu
    Tên thật:
    Trần Thị Thanh Hà
    Đến từ: Giáo phận Bà Rịa
    Sở thích: Nhiều quá kể không hết......
    Nghề nghiệp: Việc không tên.....
    Cảm ơn
    3,454
    Được cảm ơn 1,788 lần
    trong 369 bài viết
    Ngày 07-04

    Thánh GIOAN LASAN




    (1615-1719)


    Lược sử

    Cố gắng chu toàn những gì được coi là thánh ý Thiên Chúa, đó là cuộc đời của Thánh Gioan La San. Năm 1950, Đức Giáo Hoàng Piô XII đặt ngài làm quan thầy của các bậc mô phạm vì nỗ lực của ngài trong việc giáo dục.

    Là một người trẻ của thế kỷ 17, Gioan có tất cả mọi sự: năng khiếu học thuật, đẹp trai, gia đình quyền quý giầu có và được giáo dục tử tế. Nhưng khi mới 11 tuổi, ngài xuống tóc đi tu làm linh mục, và sau đó được chịu chức vào năm 27 tuổi. Dường như một cuộc đời dễ dàng với phẩm trật cao trọng trong Giáo Hội đang sẵn sàng chờ đón ngài.

    Nhưng Thiên Chúa đã có những chương trình khác cho Cha Gioan, mà dần dà mới được tỏ lộ trong những năm sau đó. Trong một cơ hội gặp gỡ ông Nyel ở Raven, ngài cảm thấy muốn thiết lập một trường học dành cho các em trai nhà nghèo ở Raven, là nơi ngài đang sinh sống.

    Cuộc đời còn lại của Cha Gioan là sống sát với tu hội mà ngài đã thành lập: Các Thầy Trường Công Giáo (Sư Huynh La San).

    Mặc dù rất thành công, Cha Gioan cũng không thoát khỏi những thử thách, đó là sự đau lòng khi các sư huynh bỏ dòng, sự chống đối cay đắng từ các hiệu trưởng ngoài đời khi họ bực bội với phương pháp giáo dục mới và hữu hiệu của ngài, cũng như thường xuyên bị phe Jansen thời ấy chống đối mà Cha Gioan kịch liệt phản đối lý thuyết của phe này trong suốt cuộc đời.

    Trong những năm cuối đời, vì bị bệnh suyễn và thấp khớp, ngài từ trần vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh khi được 68 tuổi, và được Đức Giáo Hoàng Lêô XIII phong thánh năm 1900.


    Lời Bàn


    Thật hiếm có ai hoàn toàn tận hiến cho ơn gọi của Thiên Chúa, bất kể ơn gọi đó là gì. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta "hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực của mình" (Mc 12:30b). Thánh Phaolô cũng có lời khuyên tương tự: "Bất cứ những gì anh chị em làm, hãy làm hết lòng..." (Colossians 3:23).

    Lời Trích


    "Còn gì cao quý hơn là uốn nắn tính tình của các người trẻ? Tôi tin rằng người biết uốn nắn tâm tính của giới trẻ thì cao trọng hơn mọi họa sĩ, điêu khắc gia và tất cả những người giống như vậy" (Thánh Gioan Chrysostom).

    * Jansen xuất phát từ học thuyết của Cornelius Jansen (1585 - 1638), giám mục của Ypres. Trong cuốn Augustinus, Jansen đề xướng nền thần học dựa trên học thuyết của Augustine về định mệnh. Thần học này khẳng định rằng loài người hoàn toàn hư hỏng vì tội nguyên tổ và theo bản năng, loài người thích làm sự dữ hơn sự lành. Bởi bản tính suy đồi, loài người không thể làm gì khác để đáng được ơn cứu độ. Sự cứu chuộc là do ơn của Chúa mà Ngài chỉ ban cho những ai được chọn. Phần đông nhân loại là bị án phạt đời đời.

    Sau khi xuất bản được hai năm, cuốn Augustinus đã bị Giáo Hội Công Giáo lên án và cấm phát hành bởi Ðức Giáo Hoàng Urbanô VIII.

    ***
    SUY NIỆM
    (của Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ)


    Suy niệm 1: Chu toàn


    Cố gắng chu toàn những gì được coi là thánh ý Thiên Chúa, đó là cuộc đời của Thánh Gioan La San.

    Để chu toàn sứ vụ mà Thiên Chúa đã trao phó, Cha Gioan hết lòng lao mình vào công việc, bỏ nhà, bỏ gia đình, bỏ cả chức vụ kinh sĩ ở Rheims, bán hết tài sản để trở nên giống như các người nghèo mà ngài đã tận hiến cuộc đời để phục vụ họ.

    Ý thức việc chu toàn sứ vụ là điều tối quan trọng, nên thánh Phaolô tông đồ cũng thường khuyên bảo các cọng tác viên như với một Ackhíppô khi ngài đang bị giam cầm xiềng xích (Cl 4,17) và một Timôthê khi ngài sắp phải lìa đời (2Tm 4,5).

    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chăm lo chu toàn sứ vụ hằng ngày theo đấng bậc mình.

    Suy niệm 2: Nỗ lực


    Năm 1950, Đức Giáo Hoàng Piô XII đặt ngài làm quan thầy của các bậc mô phạm vì nỗ lực của ngài trong việc giáo dục.

    Thật hiếm có ai hoàn toàn nỗ lực tận hiến cho ơn gọi của Thiên Chúa, bất kể ơn gọi đó là gì. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta "hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực của mình" (Mc 12,30b). Thánh Phaolô cũng có lời khuyên tương tự: "Bất cứ những gì anh chị em làm, hãy làm hết lòng..." (Cl 3,23).

    Đối với Thánh Gioan Bosco, là một Kitô Hữu có nghĩa phải luôn luôn nỗ lực, không chỉ một tuần một lần, xem lễ ngày Chúa Nhật là đủ. Chính khi tìm kiếm Thiên Chúa trong sinh hoạt hàng ngày, hãy để tình yêu ấy hướng dẫn chúng ta.


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng lười biếng nhưng luôn nỗ lực, vì có công mài sắt, ắt có ngày nên kim.

    Suy niệm 3: Giới trẻ


    Thiên Chúa đã có những chương trình khác cho Cha Gioan, mà dần dà mới được tỏ lộ trong những năm sau đó.

    Trong một cơ hội gặp gỡ ông Nyel ở Raven, ngài cảm thấy muốn thiết lập một trường học dành cho các em trai nhà nghèo ở Raven, là nơi ngài đang sinh sống. Mặc dù công việc lúc đầu thật ghê tởm đối với ngài, nhưng sau đó, càng ngày ngài càng say mê hoạt động cho các thiếu niên nghèo túng.

    Cha Gioan Bosco cũng quan tâm đến công việc phục vụ giới trẻ, vốn được khởi sự khi ngài gặp một em mồ côi và giúp em chuẩn bị Rước Lễ lần đầu. Sau đó ngài quy tụ các người trẻ lại và chỉ dạy họ về giáo lý. Cha Gioan mở nhà trường Thánh Phanxicô "de Sales" cho các em trai. Ngoài ra ngài cũng mở hai trường dạy nghề cho các em trai, trường dạy đóng giầy và dạy may quần áo.


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấu hiểu nhận định của Thánh Gioan Kim Khẩu: "Còn gì cao quý hơn là uốn nắn tính tình của các người trẻ? Tôi tin rằng người biết uốn nắn tâm tính của giới trẻ thì cao trọng hơn mọi họa sĩ, điêu khắc gia và tất cả những người giống như vậy".

    Suy niệm 4: Tu hội


    Cuộc đời của Cha Gioan là sống sát với tu hội mà ngài đã thành lập, Các Thầy Trường Công Giáo (Sư Huynh La San).

    Tu hội này phát triển mau chóng và thành công trong việc giáo dục các nam thiếu niên của gia đình nghèo với phương pháp sư phạm mà Cha Gioan đề ra, đó là sự dạy dỗ cả lớp thay vì chỉ bảo cá nhân, và dùng tiếng bản xứ thay vì tiếng Latinh.

    Đồng thời tu hội cũng còn mở trường huấn luyện các giáo chức và thiết lập trường nội trú cho các thiếu niên ngỗ nghịch của các gia đình giầu có. Yếu tố năng động đằng sau các nỗ lực này là mong muốn các thiếu niên trở nên một Kitô Hữu tốt lành.


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các tu hội có nhiều thành viên thiện chí để giúp phục vụ cộng đồng và phát triển Giáo Hội.

    Suy niệm 5: Chống đối


    Mặc dù rất thành công, Cha Gioan cũng không thoát khỏi những thử thách.

    Đó là sự đau lòng khi các sư huynh bỏ dòng, sự chống đối cay đắng từ các hiệu trưởng ngoài đời khi họ bực bội với phương pháp giáo dục mới và hữu hiệu của ngài, cũng như thường xuyên bị phe Jansen thời ấy chống đối mà Cha Gioan kịch liệt phản đối lý thuyết của phe này trong suốt cuộc đời.

    Cha Gioan Bosco cũng thế. Nguyên tắc giáo dục của ngài thành công đến mức vẫn còn dược sử dụng trong các trường học công giáo ngày nay và tiếng tăm ngài thật vang dội. Nhưng ngài cũng bị chống đối dữ dội ngay đối với các đồng đội linh mục, thậm chí ngài còn bị cho là bị điên.

    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống làm sao để thà bị người dời ganh ghét chống đối, chứ đừng để Thiên Chúa chống đối và loại trừ.

    Suy niệm 6: Lạc thuyết Jansen


    Jansen xuất phát từ học thuyết của Cornelius Jansen (1585 - 1638), giám mục của Ypres.

    Trong cuốn Augustinus, Jansen đề xướng nền thần học dựa trên học thuyết của Augustine về định mệnh. Thần học này khẳng định rằng loài người hoàn toàn hư hỏng vì tội nguyên tổ và theo bản năng, loài người thích làm sự dữ hơn sự lành.
    Bởi bản tính suy đồi, loài người không thể làm gì khác để đáng được ơn cứu độ. Sự cứu chuộc là do ơn của Chúa mà Ngài chỉ ban cho những ai được chọn. Phần đông nhân loại là bị án phạt đời đời.

    Sau khi xuất bản được hai năm, cuốn Augustinus đã bị Giáo Hội Công Giáo lên án và cấm phát hành bởi Đức Giáo Hoàng Urbanô VIII. Còn lạc thuyết thì bị Đức Giáo Hoàng Innôxentê XI kết án vào năm 1678.


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn khiêm tốn trung thành sống theo giáo huấn của Giáo Hội tông truyền.
    Thiên Chúa không bao giờ bỏ mặc chúng ta. Người luôn có mặt trong những khốn cùng của chúng ta.

  4. 2 thành viên đã cảm ơn Teresa Nhỏ Bé vì bài viết này:

    nguahoangtvt (09-04-2012),Phù thủy nhỏ (07-04-2012)

  5. #43
    Teresa Nhỏ Bé's Avatar
    Trạng thái :   Teresa Nhỏ Bé đã thoát
    Tham gia : Jul 2011
    Bài gửi : 249
    Tên Thánh:
    Teresa Hài Đồng Giêsu
    Tên thật:
    Trần Thị Thanh Hà
    Đến từ: Giáo phận Bà Rịa
    Sở thích: Nhiều quá kể không hết......
    Nghề nghiệp: Việc không tên.....
    Cảm ơn
    3,454
    Được cảm ơn 1,788 lần
    trong 369 bài viết
    Ngày 08-04

    Thánh JULIE BILLIART




    (1751-1816)


    Lược sử

    Sinh ở Cuvilly, nước Pháp, trong một gia đình nông dân trung lưu, ngay từ nhỏ Marie Rose Julie Billiart đã có lòng đạo hạnh và muốn giúp đỡ người nghèo. Mặc dù những năm niên thiếu thật êm đềm và thanh thản, nhưng khi lớn lên Julie đã phải làm việc lao động để giúp đỡ tài chánh cho gia đình. Tuy nhiên, cô vẫn dành thời giờ để dạy giáo lý cho các trẻ em và các nông dân.

    Khoảng 20 tuổi, sau khi tận mắt chứng kiến cảnh kẻ thù địch muốn giết hại cha mình, cô Julie đã bị chấn động đến độ bất toại và tàn phế.

    Khi cuộc Cách Mạng Pháp bùng nổ năm 1789, cô Julie dùng nhà mình làm nơi ẩn náu cho các linh mục đang bị lùng bắt. Do đó, chính cô trở thành nạn nhân bị săn đuổi. Với sự giúp đỡ của bạn bè, cô ẩn trong chiếc xe bò chở rơm trốn đến Cuvilly; trong một vài năm kế tiếp cô trốn ở Compeigne, di chuyển từ nhà này sang nhà khác bất kể sự đau đớn về thể xác. Có lần cô đau đớn đến độ mất cả tiếng nói.

    Nhưng giai đoạn này là thời gian phát triển đời sống tâm linh của Julie. Chính trong thời gian này cô được nhìn thấy Chúa Giêsu trên đồi Canvê mà bao quanh là các phụ nữ mặc áo dòng, và cô nghe có tiếng nói, "Đây là những người con tinh thần mà Ta trao cho con trong một tổ chức có dấu thập giá." Năm 1804, cô Julie được bình phục và có thể đi lại bình thường sau 22 năm tàn phế. Vào năm 1805, Julie và ba người bạn là các nữ tu đầu tiên của Hội Dòng Đức Bà Namur khấn trọn. Sơ Julie được bầu làm Mẹ Bề Trên của tu hội trẻ trung này.

    Từ lúc thành lập tu hội Các Nữ Tu của Đức Bà cho đến khi từ trần, Sơ Julie luôn luôn di chuyển để mở các trường học khác nhau ở Pháp và Bỉ để phục vụ người nghèo cũng như giầu. Sau cùng, Sơ Julie và Sơ Francoise di chuyển nhà mẹ đến Namur, nước Bỉ.

    Sơ Julie từ trần năm 1816, và được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI phong thánh năm 1969.


    Suy niệm 1: Đạo hạnh


    Ngay từ nhỏ Marie Rose Julie Billiart đã có lòng đạo hạnh và muốn giúp đỡ người nghèo.

    Lòng đạo hạnh của ngài được biểu lộ qua việc ngài quan tâm đến người nghèo. Ngài luôn chú ý đến nhu cầu của người nghèo và đó vẫn là điều tiên quyết.

    Vào năm 1803, ngài bắt đầu thành lập một tổ chức lấy tên là Hội Dòng Đức Bà Namur, để giáo dục người nghèo. Ngài luôn di chuyển để mở các trường học khác nhau ở Pháp và Bỉ để phục vụ người nghèo.


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn vượt qua chính mình để sát cánh với người nghèo hầu dễ dàng tiến đức.

    Suy niệm 2: Thời giờ


    Khi lớn lên Julie đã phải làm việc lao động để giúp đỡ tài chánh cho gia đình. Tuy nhiên, cô vẫn dành thời giờ để dạy giáo lý cho các trẻ em và các nông dân.

    Cô là con người chẳng những biết quý trọng mà còn biết tận dụng thời giờ nữa. Vì thế trong thời gian bị bất toại, cô không chịu khuất phục số phận mà ngược lại khi chịu lễ hàng ngày, cô luyện tập đời sống tâm linh và dành 4 đến 5 giờ đồng hồ trong sự chiêm niệm.

    Trong một vài năm kế tiếp khi trốn ở Compeigne, cô lại sử dụng giai đoạn này để phát triển đời sống tâm linh của cô. Chính trong thời gian này cô được nhìn thấy Chúa Giêsu trên đồi Canvê mà bao quanh là các phụ nữ mặc áo dòng, và cô nghe có tiếng nói, "Đây là những người con tinh thần mà Ta trao cho con trong một tổ chức có dấu thập giá."


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng lãng phí thì giờ Chúa ban mà phải hết mình sử dụng dầu phải gặp nghịch cảnh, vì Đấng toàn năng có thể biến điều dữ thành điều lành.

    Suy niệm 3: Giáo lý


    Khi lớn lên Julie đã phải làm việc lao động để giúp đỡ tài chánh cho gia đình. Tuy nhiên, cô vẫn dành thời giờ để dạy giáo lý cho các trẻ em và các nông dân.

    Mặc dù Sơ Julie luôn luôn chú ý đến nhu cầu của người nghèo và đó vẫn là điều tiên quyết, nhưng sơ nhận thấy những người thuộc giai cấp khác của xã hội cũng cần được học hỏi về giáo lý Công Giáo. Trong vòng hai thập niên bị bất toại, dù phải liệt giường nhưng cô vẫn tiếp tục dạy giáo lý, khuyên bảo và thu hút nhiều người đến với cô vì nghe tiếng thánh thiện của cô.

    Thời gian trôi qua và Julie quen biết với một phụ nữ quý tộc, cô Francoise Blin de Bourdon, là người cùng chia sẻ việc dạy giáo lý với cô. Vào năm 1803, 2 người bắt đầu thành lập 1 tổ chức lấy tên là Hội Dòng Đức Bà Namur, để giáo dục người nghèo cũng như các thiếu nữ Công Giáo và huấn luyện giáo lý viên.


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chú tâm đến việc giáo lý vì có biết Chúa mới yêu mến Chúa nồng thắm hơn.

    Suy niệm 4: Bất toại


    Khoảng 20 tuổi, sau khi tận mắt chứng kiến cảnh kẻ thù địch muốn giết hại cha mình, cô Julie đã bị chấn động đến độ bất toại và tàn phế.

    Tinh thần và thể xác thường có tương quan mật thiết và tác động lẫn trên nhau. Một chiếc răng đau cũng làm cho bệnh nhân khó cầm trí và suy nghĩ thông suốt. Ngược lại một chấn động tinh thần cũng gây nên bại liệt và tàn phế, như trường hợp của cô Julie.
    Tuy nhiên ảnh hưởng hỗ tương này không hẳn luôn là như thế. Thật vậy thân xác thánh Lôrensô bị cột trên một vỉ sắt lớn với lửa riu riu để từ từ thiêu đốt da thịt của ngài, nhưng tinh thần thánh nhân vững mạnh đến độ có thể đùa bỡn. Ngài nói với quan tòa, "Lật tôi đi chứ. Phía bên này chín rồi!" Và trước khi trút hơi thở cuối cùng, ngài nói, "Bây giờ thì đã chín hết rồi."

    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ý thức về mối tương liên giữa thể xác và tinh thần, nhất là thực trạng mà Chúa cho hay: “tinh thần thì hăng say nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26,41).

    Suy niệm 5: Nạn nhân


    Khi cuộc Cách Mạng Pháp bùng nổ năm 1789, cô Julie dùng nhà mình làm nơi ẩn náu cho các linh mục đang bị lùng bắt. Do đó, chính cô trở thành nạn nhân bị săn đuổi.

    Hơn thế, thánh Antôn Nguyễn Đích là người đạo hạnh, hết lòng giúp đỡ hàng giáo sĩ và hay thương kẻ nghèo hèn. Thời vua Minh Mạng cấm đạo, Cha Giacôbê Mai Năm đã đến trú ngụ tại nhà ngài, và cả hai cùng với con rễ là Micae Mỹ đều bị bắt giải về Nam Định vì tội chứa chấp đạo trưởng. Và cả ba bị xử trảm tại pháp trường Bảy Mẫu ngày 12/08/1838.

    Thánh Mátthêu Nguyễn văn Phượng bị bắt vì tội chứa chấp Cha Gioan Hoan và oa trữ đồ lễ cùng sách vỡ công giáo. Trong tù ngài vẫn luôn giữ vững lòng tin vào thiên Chúa và sẵn sàng đổ máu để nên chứng nhân nước trời. Và án lệnh xử tử được vua Tự Đức châu phê vào ngày 25/05/1861.

    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hết mình bênh vực chở che các linh mục, cho dầu phải trở thành nạn nhân cho người chống đối.

    Suy niệm 6: Tiếng nói


    Cô Julie được nhìn thấy Chúa Giêsu trên đồi Canvê mà bao quanh là các phụ nữ mặc áo dòng, và cô nghe có tiếng nói, "Đây là những người con tinh thần mà Ta trao cho con trong một tổ chức có dấu thập giá."

    Quần chúng xưa kia bên bờ sông Giođan cũng đã được nghe thấy tiếng nói từ trời về Đức Giêsu: "Đây là Con yêu dấu cua Ta, Ta hài lòng về Người" (Mt 3,17). Nhưng không phải tất cả người nghe đều đi theo Đức Giêsu.

    Cũng thế tại núi Tabo, ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan cũng được nghe thấy tiếng nói từ trời về Đức Giêsu: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!" (Mt 17,5). Và các ngài đã vâng nghe lời Đức Giêsu.


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn thực hành và sống theo lời giảng dạy của các vị đại diện Chúa ở trần gian.
    Thiên Chúa không bao giờ bỏ mặc chúng ta. Người luôn có mặt trong những khốn cùng của chúng ta.

  6. 3 thành viên đã cảm ơn Teresa Nhỏ Bé vì bài viết này:

    nguahoangtvt (09-04-2012),Phù thủy nhỏ (07-04-2012),Thánh Thư (16-04-2012)

  7. #44
    Teresa Nhỏ Bé's Avatar
    Trạng thái :   Teresa Nhỏ Bé đã thoát
    Tham gia : Jul 2011
    Bài gửi : 249
    Tên Thánh:
    Teresa Hài Đồng Giêsu
    Tên thật:
    Trần Thị Thanh Hà
    Đến từ: Giáo phận Bà Rịa
    Sở thích: Nhiều quá kể không hết......
    Nghề nghiệp: Việc không tên.....
    Cảm ơn
    3,454
    Được cảm ơn 1,788 lần
    trong 369 bài viết
    Ngày 15-04

    Chân phước DAMIEN Ở MOLOKAI

    (1840-1889)


    Lược sử

    Chân Phước Damien, tên thật là Giuse "de Veuster", sinh ở Bỉ ngày 3 tháng Giêng 1840, trong một gia đình mà cha là một nông dân cần cù và bà mẹ tận tụy dạy dỗ đức tin cho tám người con.

    Ngay từ nhỏ, cậu Giuse mạnh khoẻ và tráng kiện, đã phải thôi học để giúp cha trong công việc đồng áng. Cậu chăm chỉ giúp đỡ gia đình trong nhiều năm, nhưng tâm hồn cậu vẫn ở một nơi nào đó. Vào lúc 19 tuổi, theo gương anh mình, Giuse gia nhập Tu Hội Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria, và lấy tên là Damien. Vì nhất quyết theo đuổi việc học và để hết tâm hồn trong đời sống tu trì, chẳng bao lâu Damien đã bù đắp được sự thiếu hụt trong việc giáo dục trước đây.

    Vào năm 1863, Cha Pamphile, anh ruột của Thầy Damien, chuẩn bị đến quần đảo Hạ Uy Di trong công tác truyền giáo. Nhưng cha lâm bệnh nặng, và Thầy Damien tình nguyện thế chỗ. Sau năm tháng dòng dã trên biển, thầy đến hải cảng Honolulu. Trong vòng hai tháng tiếp đó, thầy được thụ phong linh mục và được bổ nhiệm phục vụ ở Đại Đảo của Hạ Uy Di. Sự phục vụ của Cha Damien được ghi nhận là hăng say và tính tình dễ dãi của ngài thu hút được nhiều người. Sau khoảng một thập niên, ngài tình nguyện đến Molokai để phục vụ các người bị mắc bệnh Hansen, thường gọi là bệnh cùi. Vào lúc Cha Damien đến đây, những người mắc bệnh cùi bị đầy ra đảo này đã hơn mười năm qua.

    Cha Damien, lúc ấy 33 tuổi, đến Molokai vào tháng Năm 1873 với hành trang là cuốn sách kinh và một ít quần áo. Theo dự định ban đầu của tu hội, ngài chỉ ở đây một vài tháng rồi sau đó có các linh mục khác lần lượt ra thay thế. Nhưng sau khi đến đây được ít lâu, ngài đã viết thư xin cha bề trên cho phép ngài vĩnh viễn ở lại Molokai.

    Có thể nói, ngài sống với người cùi -- ăn uống với họ, đụng chạm đến họ, chào đón họ. Cha Damien được giao cho trông coi một cộng đồng Công Giáo. Hàng ngày, cha như chìm đắm trong sự cầu nguyện, suy gẫm và đọc sách thiêng liêng, do đó ngài lôi cuốn được hàng trăm người trở lại đạo. Nhưng tâm hồn của cha vẫn ở với tất cả các nạn nhân của bệnh Hansen, dù Công Giáo hay không Công Giáo. Ngài chăm sóc người bệnh, mai táng kẻ chết, lắng nghe những tâm sự đau lòng. Ngài giúp cải tiến hệ thống dẫn nước cũng như nơi ăn ở của họ. Ngài trông coi việc xây cất một trường học, một cô nhi viện và tổ chức sinh hoạt thiếu nhi cũng như ca đoàn. Ngài là người đào huyệt cũng như chủ sự lễ an táng.



    Người ta không rõ khi nào thì Cha Damien bị lây bệnh cùi, nhưng chắc chắn là một ngày trong năm 1884 khi ngài bị phỏng ở chân mà không thấy đau. Căn bệnh tấn công ngài như bất cứ người nào khác: từ từ, chân tay và mặt mũi ngài biến dạng, tai ngài sưng to và méo mó. Vào ngày 15 tháng Tư 1889, ngày thứ Hai Tuần Thánh, căn bệnh đã chấm dứt cuộc đời Cha Damien, khi mới 49 tuổi. Lúc ấy được 16 năm sau khi ngài đến Molokai, và 25 năm kể từ khi ngài đến Hạ Uy Di để bắt đầu công việc truyền giáo.

    Trong những ngày cuối đời, Cha Damien được Mẹ Bề Trên Marianne Cope chăm sóc, là người đã hứa sẽ tiếp tục công việc mà cha đã khởi sự. Và sơ đã thể hiện điều đó trong 30 năm kế tiếp với sự cộng tác của các sơ trong tu hội.



    Cha Damien được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước vào tháng Sáu 1995. Và cuối năm 1999, theo lời yêu cầu của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ và đã được Vatican chấp thuận, Chân Phước Damien được kính nhớ vào ngày 15 tháng Tư trong niên lịch phụng vụ của Giáo Hội Hoa Kỳ.

    ***


    SUY NIỆM
    (của Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ)


    Suy niệm 1: Cần cù


    Chân Phước Damien, tên thật là Giuse "de Veuster", sinh ở Bỉ ngày 3 tháng Giêng 1840, trong một gia đình mà cha là một nông dân cần cù và bà mẹ tận tụy dạy dỗ đức tin cho tám người con.

    Thông minh tài trí thì không phải mấy ai cũng có được, nhưng có thể bù đắp bằng đức tính cần cù, như lời cổ nhân dạy: Cần cù bù thông minh.

    Hấp thụ được đức tính cần cù của phụ mẫu, Damien dầu thôi học ngay từ nhỏ để giúp đỡ gia đình, nhưng đến năm 19 tuổi, ngài vẫn cần cù theo đuổi việc học và đời sống tu trì, chẳng bao lâu Damien đã bù đắp được sự thiếu hụt trong việc giáo dục trước đây, để rồi được thụ phong linh mục vào năm 1863.


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết cần cù không để làm giàu nhưng để khỏi bị thiệt thân như lời Sách Châm Ngôn dạy (Cn 13,4).

    Suy niệm 2: Thôi học


    Ngay từ nhỏ, Damien mạnh khoẻ và tráng kiện, đã phải thôi học để giúp cha trong công việc đồng áng.

    Con đường học vấn vốn là con đường thông thường giúp cho người tiến thân. Nhưng không thiếu những người phải chấp nhận thôi học vì hoàn cảnh túng thiếu của gia đình như một Damien.

    Cũng thế Thánh Richard đã phải bỏ dở việc học để giúp anh mình quản trị cơ sở khỏi bị lụn bại. Và khi có cơ hội, ngài cũng không muốn lập gia đình vì muốn đi học trước đã. Ngài vào Đại Học Oxford và với sự chăm chỉ học hành, không lâu ngài đã có được một địa vị quan trọng trong trường. Sau khi được thụ phong linh mục, ngài được tấn phong làm giám mục của Chichester, nước Anh.


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn coi trọng việc học hành, không nhằm tiến thân nhưng ít là để được thành nhân.

    Suy niệm 3: Dễ dãi


    Sự phục vụ của Cha Damien được ghi nhận là hăng say và tính tình dễ dãi của ngài thu hút được nhiều người.

    Tính tình dễ dãi nhưng không vượt quá giới hạn của các nguyên tắc cơ bản phải tuân thủ thường có hiệu quả thu hút được nhiều người. Chính yếu tố then chốt này đã giúp Cha Damien lôi cuốn được hàng trăm người trở lại đạo.

    Tính tình dễ dãi của Đức Giêsu cũng từng tạo điều kiện cho bao người chạy tìm đến với Ngài, từ hạng dân thường đến người có chức quyền, kể cả các bệnh nhân phong cùi mà xã hội loài người loại bỏ và xa tránh, thậm chí cả trẻ em cũng được tiếp nhận.


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tránh lối sống quan liêu kẻo bị người người ngại ngùng tìm đến.

    Suy niệm 4: Bệnh cùi


    Sau khoảng một thập niên, ngài tình nguyện đến Molokai để phục vụ các người bị mắc bệnh Hansen, thường gọi là bệnh cùi.

    Người ta không rõ khi nào thì Cha Damien bị lây bệnh cùi, nhưng chắc chắn là một ngày trong năm 1884 khi ngài bị phỏng ở chân mà không thấy đau. Căn bệnh tấn công ngài như bất cứ người nào khác: từ từ, chân tay và mặt mũi ngài biến dạng, tai ngài sưng to và méo mó. Vào ngày 15 tháng Tư 1889, ngày thứ Hai Tuần Thánh, căn bệnh đã chấm dứt cuộc đời Cha Damien, khi mới 49 tuổi.

    Đúng như lời ngài tâm sự: "Thiên Chúa là Đấng nhân lành biết rõ những gì cần cho tôi nên thánh, và với tâm hồn sẵn sàng, tôi vui sướng nói rằng, 'Xin cho ý Cha được thể hiện.' Còn phần tôi, tôi chấp nhận là một người cùi để đem các linh hồn về cho Đức Giêsu Kitô".


    * Lạy Chúa Giêsu, bệnh cùi thật đáng sợ với việc hủy hoại thân xác, nhưng không sánh được với tội lỗi vốn giết chết cả linh hồn.

    Suy niệm 5: Hành trang


    Cha Damien, lúc ấy 33 tuổi, đến Molokai vào tháng Năm 1873 với hành trang là cuốn sách kinh và một ít quần áo.

    Sở dĩ Cha Damien chỉ mang theo cuốn sách kinh và một ít quần áo, là vì ngài hiểu rõ: Hành trang lên đường của nhà truyền giáo phải được đặt lên hàng đầu, đó là đời sống tâm linh hơn là vật chất.

    Để gây ý thức cho các tông đồ về điều này, Đức Giêsu đã từng ra chỉ thị: "Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo” (Lc 9,3).


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sắm sẵn hành trang lên đường truyền giáo là chính Chúa vì có Chúa mới trao Chúa cho người được.

    Suy niệm 6: Sống


    Có thể nói, Cha Damien sống với người cùi.

    Ngài sống hòa đồng đến mức cùng ăn uống với họ, đụng chạm đến họ, chào đón họ. Ngài chăm sóc người bệnh, mai táng kẻ chết, lắng nghe những tâm sự đau lòng. Ngài là người đào huyệt cũng như chủ sự lễ an táng, để rồi cuối cùng ngài cũng bị mắc bệnh cùi.

    Đức Giêsu đã có lối sống hòa đồng tuyệt hảo đến mức Ngài là Thiên Chúa nhưng khi nhập thế và nhập thể làm người, Ngài đã trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế (Pl 2,7), ngoại trừ tội lỗi (1Pr 2,22;Dt 7,26).

    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết hạ mình sống hòa đồng với mọi người ngoại trừ tội lỗi.

    ____________________________
    Tông đồ Người cùi

    Molokai, quần đảo xa xăm ấy nằm cô đơn giữa lòng Thái Bình Dương mênh mông. Trên đảo toàn là người hủi: cụt tay, đứt chân, mắt đui, môi lở, răng rụng... Một hôm, Đức Giám Mục đặc trách quần đảo này gióng tiếng kêu gọi các Linh Mục ở Âu Châu tình nguyện hy sinh sang đó phục vụ. Một Linh Mục trẻ, đẹp trai, thông minh, khoẻ mạnh hăng hái đáp lời. Đó là Cha Đamien, người về sau được thêm biệt danh: “Tông Đồ người hủi”.

    Chiều hôm đó, trong Nhà Thờ ở đảo Molokai đông nghẹt những người hủi da ngăm đen với mùi hôi tanh nồng nặc, Đức Giám Mục đứng trên Bàn Thờ quay xuống giới thiệu với Giáo Dân: “Các con thân mến, các con hằng mong ước có một Linh Mục đến cùng các con, thì đây, cha Đamien, một Linh Mục người Bỉ sẽ sống chung với các con từ nay cho đến chết. Các con có sung sướng không ?”

    Cả Nhà Thờ xôn xao, thì thầm to nhỏ. Cha Đamien đứng cạnh Đức Giám Mục chẳng hiểu tý nào. Rồi họ từ từ tiến lên Cung Thánh, dáng điệu chất phác đơn sơ. Cha Damien càng nhìn thấy họ đến gần mình thì càng sởn tóc gáy. Họ trông như những thây ma còn sống, như những quái thai mất hẳn dáng người. Họ làm gì đây ? Họ tiến đến bên cha sờ vào mặt, vào tay, vào áo cha...

    Cha hỏi Đức Giám Mục: “Thưa Đức Cha, họ làm gì thế ? Họ nói gì thế ?” Đức Cha trả lời: “Họ nói, họ không thể tưởng tượng được một người ở phương xa, chẳng bà con huyết thống gì với họ, còn trẻ, đẹp trai, không bệnh tật như cha, tự nhiên lại đến phục vụ họ trên mảnh đất khốn cùng này. Họ không tin mắt mình nên mới đến sờ mó vào người cha, xem thử cha có thực sự bị phung hủi như họ không. Rồi họ nói với nhau: “Không, Cha đẹp quá !”.

    Dần dần, cha Đamien hoà đồng được với họ. Ngài không còn cảm thấy tởm gớm họ như ngày đầu. Nói đúng hơn, ngài quá yêu Chúa Giêsu bị bỏ rơi trong họ nên chẳng còn thấy e sợ, gớm ghiếc chi. Một ngày kia, đến lượt cha cũng bị mắc bệnh phong hủi. Thân hình cha lở loét, nhức nhối. Mặt mày cha sù sì, đen đủi, u nần trông rất dễ sợ.

    Một số báo ở Bỉ đăng hình cha Đamien để mô tả sự hy sinh vĩ đại của cha. Bà cụ thân sinh của cha mắt mờ không đọc được, nhìn vào bức hình cũng chẳng nhận ra nổi người con yêu. Bà hỏi các con trong gia đình: “Hình ai đây mà trông mà trông ghê sợ vậy ?” Các con đều trả lời mẹ: “Thưa mẹ, đó là một trong những người hủi trên đảo Molokai của anh Đamien đấy”. Qua mặt được bà cố, nhưng họ lại nhìn nhau và không ai bảo ai, tất cả đều xót xa rơi lệ... Cha Đamien đã sống với người hủi cho đến chết. Tình yêu Chúa đã giúp cha hy sinh suốt đời vì họ.
    Thay đổi nội dung bởi: Teresa Nhỏ Bé, 16-04-2012 lúc 10:23 AM
    Thiên Chúa không bao giờ bỏ mặc chúng ta. Người luôn có mặt trong những khốn cùng của chúng ta.

  8. Thành viên đã cảm ơn Teresa Nhỏ Bé vì bài viết này:

    Thánh Thư (16-04-2012)

  9. #45
    Teresa Nhỏ Bé's Avatar
    Trạng thái :   Teresa Nhỏ Bé đã thoát
    Tham gia : Jul 2011
    Bài gửi : 249
    Tên Thánh:
    Teresa Hài Đồng Giêsu
    Tên thật:
    Trần Thị Thanh Hà
    Đến từ: Giáo phận Bà Rịa
    Sở thích: Nhiều quá kể không hết......
    Nghề nghiệp: Việc không tên.....
    Cảm ơn
    3,454
    Được cảm ơn 1,788 lần
    trong 369 bài viết
    Ngày 16-04

    Thánh BERNADETTE SOUBIROUS




    (1844-1879)


    Lược sử

    Thánh Bernadette Soubirous tên thật là Mary Bernard, con của 1 gia đình thật nghèo làm nghề xay bột ở Lộ Đức, thuộc miền nam nước Pháp. Ngay từ khi còn nhỏ, cô bị bệnh suyễn thật nặng nên sức khỏe rất yếu kém.

    Vào ngày 11 tháng Hai 1858, cô được Đức Trinh Nữ Maria hiện ra với cô trong một cái hang nằm trên con đê của sông Gave, gần Lộ Đức. Cô được thị kiến Đức Trinh Nữ tất cả 18 lần, lần sau cùng vào ngày lễ Đức Mẹ Núi Carmel, 16 tháng Bảy. Khi kể lại lần thị kiến đầu tiên, cô đã tự đặt mình vào tình trạng nguy hiểm đối với nhà chức trách. Nhưng Đức Trinh Nữ hiện ra với cô hàng ngày đã khiến đám đông tuốn đến hang ngày càng đông. Nhà chức trách tìm cách đe dọa để cô công khai rút lui, nhưng cô vẫn trung thành với những gì được thấy.

    Vào ngày 25 tháng Hai, một suối nước chảy ra từ hang mà cô Bernadette đã dùng tay đào xới khi vâng theo lời Đức Trinh Nữ. Nước suối ấy đã chữa được nhiều người khỏi bệnh kể cả người tàn tật.

    Vào ngày 25 tháng Ba, Bernadette cho biết trinh nữ hiện ra với cô tự xưng là Đức Vô Nhiễm Nguyên Tội, và ngài muốn xây một nhà thờ ở đây.

    Vào năm 1866, Bernadette được gửi vào dòng Nữ Tu Đức Bà ở Nevers. Ở đây, sơ trở nên một phần tử của cộng đoàn, và bị sơ giám đốc đệ tử đối xử rất tệ hại. Sự bất nhẫn ấy chỉ chấm dứt khi họ khám phá rằng sơ Bernadette đang chịu đau khổ vì một căn bệnh bất trị. Sơ từ trần ở Nevers vào ngày 15 tháng Tư 1879, khi mới 35 tuổi.

    Lộ Đức trở nên trung tâm hành hương lớn nhất thế giới, và suối nước nhỏ bé ấy hàng ngày vẫn cung cấp nước cho khách thập phương từ khắp nơi trên thế giới.

    Sơ Bernadette được phong chân phước vào năm 1925, và được Đức Giáo Hoàng Piô XI phong thánh vào năm 1933.




    Xác của Thánh Bernadette vẫn còn nguyên vẹn cho đến ngày nay.
    ***
    SUY NIỆM
    (của Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ)


    Suy niệm 1: Nghèo


    Thánh Bernadette Soubirous tên thật là Mary Bernard, con của 1 gia đình thật nghèo làm nghề xay bột ở Lộ Đức, thuộc miền nam nước Pháp. Ngay từ khi còn nhỏ, cô bị bệnh suyễn thật nặng nên sức khỏe rất yếu kém.

    Thật huyền nhiệm, trong lúc người đời luôn sợ cái nghèo và do đó cũng thường xa lánh người nghèo, thì Thiên Chúa lại quan tâm và yêu thích chọn người xuất thân nghèo khó, như đã chọn trẻ chăn chiên nghèo nàn Đavít làm vua kế vị Saun (1Sm 16,11-13).

    Đức Giêsu hiện thân của Thiên Chúa tại trần gian cũng chọn các ngư phủ nghèo khó làm tông đồ kế nghiệp Ngài (Mt 4,18-22). Tiếp theo đường hướng đó, Đức Maria cũng chọn Thánh Bernadette Soubirous nghèo nàn cả về kinh tế lẫn sức khoẻ để hiện ra và trao ban nhiều mặc khải.


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống theo đường hướng Chúa để xứng là người con Chúa.

    Suy niệm 2: Hang


    Vào ngày 11 tháng Hai 1858, cô Bernadette được Đức Trinh Nữ Maria hiện ra với cô trong một cái hang nằm trên con đê của sông Gave, gần Lộ Đức.

    Hang động vốn là một địa danh mang tính tĩnh mịch và thiên nhiên thật thích hợp cho những cuộc gặp gỡ thần thiêng. Chính vì thế Đức Maria đã chọn địa điểm này để hiện ra nhiều lần với cô Bernadette.

    Đức Giêsu chào đời cũng chọn một hang đá tại Bêlem ngoài đồng vắng, để tại đây lần lượt đón chào cuộc diện kiến của nhóm mục đồng cũng như ba nhà đạo sĩ phương Đông.


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết lui vào nơi tĩnh mịch để dễ gặp gỡ và tâm sự cùng Chúa.

    Suy niệm 3: Nhà chức trách


    Khi kể lại thị kiến đầu tiên, Bernadette đã tự đặt mình vào tình trạng nguy hiểm đối với nhà chức trách.

    Thật vậy nhà chức trách tìm cách đe dọa để cô công khai rút lui, nhưng cô vẫn trung thành với những gì được thấy. Nhiều giới chức dân sự tìm cách đóng suối nước lại và trì hoãn công việc xây cất nhà thờ.

    Nhưng ảnh hưởng và tiếng vang đã thấu đến tai Hoàng Hậu Eugenie nước Pháp, vợ của Napoleon III, do đó việc xây cất được tiến hành tốt đẹp. Đám đông lại quy tụ về Lộ Đức, không bị phiền hà bởi các giới chức chống đối tôn giáo và hàng giáo sĩ.


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con theo gương Thánh nữ Bernadette, để luôn trung thành với linh thị bất chấp mọi nghịch cảnh đến từ chính quyền.

    Suy niệm 4: Vâng theo


    Vào ngày 25 tháng Hai, một suối nước chảy ra từ hang mà cô Bernadette đã dùng tay đào xới khi vâng theo lời Đức Trinh Nữ.

    Nhờ vâng lời Thiên Chúa dùng gậy đập vào đá mà Môsê đã giúp toàn dân đang lưu lạc trong sa mạc có nước uống cho cả cộng đồng và súc vật (Ds 20,11).

    Cũng thế nhờ vâng lệnh Đức Giêsu thả lưới, dầu vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả, mà Phêrô đã có được một mẻ cá lạ lùng (Lc 5,5).


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín về giá trị của đức vâng lời để luôn thực thi trong đời sống.

    Suy niệm 5: Đau khổ


    Sự bất nhẫn ấy chỉ chấm dứt khi họ khám phá rằng sơ Bernadette đang chịu đau khổ vì một căn bệnh bất trị.

    Sự đau khổ thể xác do cơn bệnh hành hạ chẳng là gì so với nỗi đau Bernadette phải gánh chịu, khi vào năm 1866, Bernadette được gửi vào dòng Nữ Tu Đức Bà ở Nevers. Ở đây, sơ trở nên một phần tử của cộng đoàn, và bị sơ giám đốc đệ tử đối xử rất tệ hại.

    Nhưng nỗi đau tinh thần của Bernadette làm sao sánh được với Đức Giêsu, khi Ngài là vua trên hết các vua lại bị một vị quan nhu nhược xét xử, khi Ngài là Thiên Chúa vô tội và ba lần thánh lại bị vu cáo với bản án tử hình thập giá.


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hãy luôn chiêm ngắm sự đau khổ của Chúa, để kiên tâm chịu đựng nỗi đau của mình.

    Suy niệm 6: Hành hương


    Lộ Đức trở nên trung tâm hành hương lớn nhất thế giới.

    Lộ Đức được đánh giá là trung tâm hành hương lớn nhất thế giới, nhưng đâu phải ai ai cũng có trách nhiệm phải quy tụ về, vì thế Lộ Đức làm sao sánh được với quê hương trên trời là nơi toàn thể nhân loại đều phải nỗ lực hành hương về.

    Đàng khác tại Lộ Đức dầu có lắm bệnh nhân được chữa lành cách diệu kỳ nhưng cũng chỉ làm giảm bớt nỗi khổ đau của trần thế trong thời gian, còn trên thiên đàng thì không còn khổ đau mà chỉ toàn là hạnh phúc và hoan hỷ muôn đời (Is 25,7-8).


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn chú tâm hoàn thành cuộc hành hương về quê trời vĩnh cửu.
    Thiên Chúa không bao giờ bỏ mặc chúng ta. Người luôn có mặt trong những khốn cùng của chúng ta.

  10. 2 thành viên đã cảm ơn Teresa Nhỏ Bé vì bài viết này:

    Phù thủy nhỏ (17-04-2012),Thánh Thư (19-04-2012)

  11. #46
    Teresa Nhỏ Bé's Avatar
    Trạng thái :   Teresa Nhỏ Bé đã thoát
    Tham gia : Jul 2011
    Bài gửi : 249
    Tên Thánh:
    Teresa Hài Đồng Giêsu
    Tên thật:
    Trần Thị Thanh Hà
    Đến từ: Giáo phận Bà Rịa
    Sở thích: Nhiều quá kể không hết......
    Nghề nghiệp: Việc không tên.....
    Cảm ơn
    3,454
    Được cảm ơn 1,788 lần
    trong 369 bài viết
    Ngày 17-04

    Thánh BENEDICT JOSEPH LABRÉ




    (1748-1783)


    Lược sử

    Thánh Benedict Joseph Labré thực sự là một con người lập dị, nhưng rất đặc biệt của Thiên Chúa. Là con cả trong gia đình 15 người con, Benedict Joseph Labré sinh ở Amettes thuộc miền bắc nước Pháp. Cha mẹ của cậu làm chủ một nông trại và có một tiệm buôn nhỏ nên đời sống của họ tương đối thoải mái.

    Vào năm 12 tuổi, cậu được gửi đến sống với người chú là một linh mục triều ở Erin. Trong thời gian này, Benedict say mê đọc Kinh Thánh và gương thánh nhân đến nỗi người chú phải nhắc nhở cậu về việc học tiếng Latinh, là điều bắt buộc để trở nên một linh mục. Tuy nhiên, cậu nhận ra ơn gọi của Thiên Chúa trong sự hoàn toàn từ bỏ thế gian. Do đó, sau khi người chú từ trần vì chăm sóc các nạn nhân bệnh dịch tả, Benedict trở về nhà, và đi tìm dòng tu khắc khổ nhất.

    Vì sức khoẻ yếu kém và vì thiếu nền tảng học vấn nên Benedict không được nhận vào đời sống tu trì. Sau đó, vào năm 18 tuổi, một thay đổi quan trọng có ảnh hưởng sâu xa đến cuộc đời. Benedict không muốn học hành và từ bỏ ý định đi tu. Ngài bỏ nhà và sống như một vị khổ tu, đi hành hương hết đền thánh này đến đền thánh khác. Ngài mặc quần áo rách rưới và ngủ ngay ngoài trời, thực phẩm của ngài chỉ là mẩu bánh hoặc ít rau trái nhờ vào lòng bác ái của người qua đường hoặc lượm nhặt được từ những nơi phế thải. Ngài không xin ăn và sẵn sàng chia sẻ thực phẩm dư dật với người nghèo. Ngài đặc biệt sùng kính Đức Mẹ và bí tích Thánh Thể.

    Bất cứ ai gặp ngài đều không thể quên được một người thật rách rưới nhưng biết tiếng Latinh, thông thạo Kinh Thánh, trông như người ăn xin nhưng không bao giờ xin xỏ. Họ bâng khuâng tự hỏi làm thế nào kẻ lang thang ấy lại có đôi mắt thật nhân từ và một lối sống có phẩm giá. Điều họ thắc mắc đã là một sứ điệp. Thiên Chúa biết loài người dễ đắm chìm trong sự ích kỷ và Ngài đã đặt trước mắt họ hình ảnh của một ngôn sứ, một phản ánh thực sự của tự do đích thực, không bị ràng buộc vào vật chất thế gian. Benedict là người soi dẫn của Thiên Chúa để cảnh giác những người lầm lạc, và là tia hy vọng cũng như sự an ủi cho những người vô gia cư chỉ vì sự tham lam của người đời.

    Vào ngày 16 tháng Tư 1783, có thể nói vì đời sống quá cực khổ, ngài kiệt sức ngã quỵ trên bậc tam cấp của một nhà thờ ở Rôma. Vào chiều tối hôm ấy, khi tiếng chuông vang vọng báo hiệu giờ kinh Salve Regina, ngài đã trút hơi thở cuối cùng trong một căn nhà gần đó. Các trẻ em chạy khắp đường phố loan báo, "Ông Thánh chết rồi! Ông Thánh chết rồi!" Tin tức ấy được loan truyền trong khi chuông nhà thờ đang rộn rã liên hồi.

    Ngài được Đức Giáo Hoàng Lêô XIII phong thánh năm 1859.

    ***
    SUY NIỆM
    (của Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ)


    Suy niệm 1: Lập dị


    Thánh Benedict Joseph Labré thực sự là một con người lập dị, nhưng rất đặc biệt của Thiên Chúa.

    Dưới con mắt người đời, Thánh Benedict Joseph Labré được xem là một con người lập dị, do cách sống không giống với người đời. Ngài mặc quần áo rách rưới và ngủ ngay ngoài trời, thực phẩm của ngài chỉ là mẩu bánh hoặc ít rau trái nhờ vào lòng bác ái của người qua đường hoặc lượm nhặt được từ những nơi phế thải. Ngài không xin ăn và sẵn sàng chia sẻ thực phẩm dư dật với người nghèo.

    Thánh Gioan Tiền Hô không bị đánh giá là lập dị nhưng bị xét một cách nặng nề hơn, đó là người bị quỷ ám (Mt 11,18) cũng do cách sống không giống người khác, chẳng hạn như không ăn không uống, hay đúng hơn chỉ ăn châu chấu và mật ong rừng cũng như mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da (Mc 1,6).

    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống không vì bia miệng người đời mà chỉ sợ Chúa chê cười.

    Suy niệm 2: Môi trường


    Vào năm 12 tuổi, cậu được gửi đến sống với người chú là một linh mục triều ở Erin.

    Nhờ môi trường này, Benedict say mê đọc Kinh Thánh và gương thánh nhân đến nỗi người chú phải nhắc nhở cậu về việc học tiếng Latinh, là điều bắt buộc để trở nên một linh mục.

    Để cho thấy tầm quan trọng của môi trường, Đức Giêsu cũng đã đề cập đến những kết quả khác nhau của những hạt giống được gieo vào vệ đường, sỏi đá, bụi gai hoặc đất tốt (Mt 13,4-8).


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hãy luôn chọn sống trong môi trường tốt để dễ trở nên người tốt.

    Suy niệm 3: Ơn gọi


    Benedict nhận ra ơn gọi của Thiên Chúa trong sự hoàn toàn từ bỏ thế gian.

    Để hoàn toàn từ bỏ thế gian, thoạt đầu Benedict đi tìm dòng tu khắc khổ nhất. Nhưng vì sức khoẻ yếu kém và vì thiếu nền tảng học vấn nên Benedict không đươc nhận vào đời sống tu trì, để rồi cuối cùng ngài bỏ nhà và sống như một vị khổ tu vô gia cư, không bị ràng buộc vào vật chất thế gian.

    Điều này cho thấy: Tự bản tính và ơn gọi, con người là một hữu thể tôn giáo. Phát sinh từ Thiên Chúa và quy hướng về Thiên Chúa, con người chỉ đạt được cuộc sống nhân bản đầy đủ khi tự do liên kết với Thiên Chúa, dầu ở đấng bậc nào (Sách Giáo Lý số 44).


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khiêm tốn đón nhận và sống trọn ơn gọi mà Chúa đã chọn cho mình trong tâm tình kết hiệp mật thiết với Chúa.

    Suy niệm 4: Ăn xin


    Bất cứ ai gặp Benedict đều không thể quên được một người thật rách rưới... trông như người ăn xin nhưng không bao giờ xin xỏ.

    Thật hiếm thấy một người ăn xin mà lại không bao giờ xin xỏ, và nhất là sẵn sàng chia sẻ thực phẩm dư dật với người nghèo.

    Thật ra ngài đã nêu gương sống trọn vẹn niềm tín thác vào Thiên Chúa Quan Phòng, Đấng biết rõ chúng ta cần gì, trước khi chúng ta cầu xin (Mt 6,8), để rồi ban dư dật cho chúng ta (Mt 6,33). Vì thế chúng ta phải đáp trả bằng việc đã được
    cho không thì cũng phải cho không như vậy (Mt 10,8).


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chủ xin mà là cho vì cho thì có phúc hơn là nhận (Cv 20,35).

    Suy niệm 5: Vô gia cư


    Benedict là người soi dẫn của Thiên Chúa để cảnh giác những người lầm lạc, và là tia hy vọng cũng như sự an ủi cho những người vô gia cư chỉ vì sự tham lam của người đời.

    Nhằm chia sẻ và ủi an những người vô gia cư, Benedict chấp nhận cuộc sống lang thang nay đây mai đó và sống nhờ vào lòng hảo tâm của tha nhân, để rồi vì đời sống quá cực khổ, ngài kiệt sức ngã quỵ trên bậc tam cấp của một nhà thờ ở Rôma và giả từ cõi đời.

    Với sứ mạng loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn (Lc 4,18), Đức Giêsu cũng sống nghèo hèn đến mức vô gia cư (Mt 8,20) và lang thang trên khắp mọi nẻo đường dất nước Do-thái để rao truyền Lời Chúa.


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn coi trọng việc rao truyền Lời Chúa lên trên hết mọi sự kể cả nơi ăn chốn ở.

    Suy niệm 6: Thánh


    Các trẻ em chạy khắp đường phố loan báo, "Ông Thánh chết rồi! Ông Thánh chết rồi!"

    Benedict quả là một vị thánh sống, không lạ gì vừa mới chết thì các trẻ em đơn sơ chất phác đã buột miệng loan báo trên khắp đường phố: "Ông Thánh chết rồi! Ông Thánh chết rồi!", cho dầu mãi về sau ngài mới được Đức Giáo Hoàng Lêô XIII chính thức phong thánh năm 1859.

    Tưởng cũng nên nhắc đến một trường hợp mới mẻ: Trong thánh lễ an táng ĐGH Gioan Phaolô II, đám đông người Ba-Lan đã hô to câu Santo Subitol, Santo Subitol! có nghĩa là “xin phong thánh lập tức, xin phong thánh lập tức” cho ĐGH. Dầu vậy, cũng phải chờ đợi phán quyết cuối cùng của Hội Đồng Tòa Thánh.


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chỉ thán phục lối sống lành thánh của các thánh nhân bằng lời xưng tụng, mà chủ yếu là hãy tập sống theo gương các ngài.
    Thiên Chúa không bao giờ bỏ mặc chúng ta. Người luôn có mặt trong những khốn cùng của chúng ta.

  12. Thành viên đã cảm ơn Teresa Nhỏ Bé vì bài viết này:

    Thánh Thư (19-04-2012)

  13. #47
    Phù thủy nhỏ's Avatar
    Trạng thái :   Phù thủy nhỏ đã thoát
    Tham gia : Jan 2011
    Bài gửi : 677
    Tên Thánh:
    Teresa
    Tên thật:
    Phù thủy nhỏ
    Đến từ: gioitreconggiao.org
    Sở thích: cầm đũa,cưỡi chổi, ^^
    Nghề nghiệp: Phù thủy thực tập
    Cảm ơn
    5,206
    Được cảm ơn 6,163 lần
    trong 811 bài viết
    Nên thánh từ những việc làm nhỏ bé nhất, cuộc sống bình thường nhất. Tất cả đều là Thánh ý của Chúa.
    Quẳng gánh lo đi và vui sống
    Mơ mộng một chút chẳng phải thừa
    Trời có lúc nắng lúc mưa
    Cơn bão đi qua cũng chưa là gì
    ^^




  14. 2 thành viên đã cảm ơn Phù thủy nhỏ vì bài viết này:

    Teresa Nhỏ Bé (17-04-2012),Thánh Thư (19-04-2012)

  15. #48
    Teresa Nhỏ Bé's Avatar
    Trạng thái :   Teresa Nhỏ Bé đã thoát
    Tham gia : Jul 2011
    Bài gửi : 249
    Tên Thánh:
    Teresa Hài Đồng Giêsu
    Tên thật:
    Trần Thị Thanh Hà
    Đến từ: Giáo phận Bà Rịa
    Sở thích: Nhiều quá kể không hết......
    Nghề nghiệp: Việc không tên.....
    Cảm ơn
    3,454
    Được cảm ơn 1,788 lần
    trong 369 bài viết
    Ngày 19-04

    Chân phước LUCHESIO và BUONADONNA




    (c.1260)



    Lược sử

    Ông Luchesio và bà Buonadonna là hai vợ chồng muốn sống theo gương Thánh Phanxicô. Do đó họ đã gia nhập Dòng Ba Phanxicô.

    Hai ông bà sống ở Poggibonzi, nơi họ hành nghề thương mãi và là con buôn tham lam. Nhưng sau khi gặp Thánh Phanxicô -- có lẽ năm 1213 -- họ đã thay đổi đời sống. Ông Luchesio bắt đầu thi hành nhiều việc bác ái.

    Lúc đầu, bà Buonadonna không nhiệt tình sống bác ái như ông Luchesio, và thường than phiền chồng là đã bố thí quá nhiều của cải cho các người lạ. Một ngày kia, khi có người gõ cửa xin được giúp đỡ, và ông Luchesio nhờ vợ lấy cho họ ít bánh mì. Bà nhăn mặt khó chịu nhưng cũng đi vào bếp, và lạ lùng thay, bà nhận thấy số bánh mì đang có thì nhiều hơn khi trước. Không bao lâu, bà cũng trở nên hăng say sống đời khó nghèo và thanh bạch như chồng. Cả hai bán cả tiệm buôn, chỉ giữ lại ít đất để cầy cấy trồng trọt đủ cho nhu cầu và phân phối đất đai còn lại cho người nghèo.

    Vào thế kỷ thứ 13, với sự ưng thuận và sự cho phép của Giáo Hội, một số vợ chồng sống ly thân để người chồng vào dòng tu nam và người vợ vào dòng tu nữ. Nhưng điều này chỉ có thể xảy ra nếu họ son sẻ hoặc con cái đã trưởng thành. Ông bà Luchesio lại muốn kiểu khác, họ muốn sống đời tu trì, nhưng bên ngoài tu viện.

    Hai ông bà Luchesio và Buonadonna đều từ trần vào ngày 28 tháng Tư 1260. Ông được phong chân phước năm 1273. Truyền thống địa phương cũng gọi bà Buonadonna là "chân phước" dù rằng Tòa Thánh chưa chính thức công bố.

    ***
    SUY NIỆM
    (của Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ)


    Suy niệm 1: Gặp gỡ


    Hai ông bà Luchesio và Buonadonna sống ở Poggibonzi, nơi họ hành nghề thương mãi và là con buôn tham lam. Nhưng sau khi gặp Thánh Phanxicô -- có lẽ năm 1213 -- họ đã thay đổi đời sống.

    Trên đời không thiếu những cuộc gặp gỡ giữa người với người. Nhưng thật ít thấy những trường hợp mang đến hiệu quả lành thánh từ một người buôn bán tham lam trở nên một người tốt lành biết hết mình sống vì Chúa và vì người như hai vợ chồng chân phước Luchesio và Buonadonna.

    Điều tốt nảy sinh điều tốt. Một ngày kia, khi ông Luchesio đang cõng một người tàn tật mà ông bắt gặp bên vệ đường thì có một thanh niên đến hỏi ông, "Cái tên quỷ quái nào mà ông đang cõng trên lưng đó?" Ông Luchesio trả lời, "Tôi đang cõng Đức Giêsu Kitô." Ngay lập tức người thanh niên ấy đã phải xin lỗi ông.

    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tranh thủ những cuộc gặp gỡ lành thánh để được mỗi ngày một nên tốt hơn.

    Suy niệm 2: Bác ái


    Ông Luchesio bắt đầu thi hành nhiều việc bác ái.

    Công việc bác ái của hai ông bà Luchesio đã thu hút người nghèo đến với họ, và cũng như các vị thánh khác, dường như hai ông bà không bao giờ thiếu của cải để giúp đỡ tha nhân.

    Vì “Thương xót kẻ khó nghèo là cho Thiên Chúa vay mượn” (Cn 19,17), mà Thiên Chúa là Đấng công bình và giàu có tuyệt đối thì người làm việc bác ái như hai ông bà Luchesio làm sao có thể rơi vào tình cảnh túng thiếu được.

    Thái độ bác ái quan tâm và gần gũi giới nghèo của Đức Giêsu đã từng cuốn hút quần chúng đến mức họ bỏ các đầu mục Dothái mà đến với Ngài (Ga 12,11). Chính vì thế các mục tử cũng luôn được mời gọi phải theo gương Đức Giêsu để quan tâm đến người nghèo (LG 23).


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng ngoảnh mặt làm ngơ đối với ai nghèo khổ, để rồi đối với chúng con, Thiên Chúa cũng sẽ không ngoảnh mặt làm ngơ (Tb 4,7).

    Suy niệm 3: Vợ chồng


    Lúc đầu, bà Buonadonna không nhiệt tình sống bác ái như ông Luchesio, và thường than phiền chồng là đã bố thí quá nhiều của cải cho các người lạ.

    Vợ chồng vốn là bạn đường tuyệt vời hằng giúp nhau vượt qua cuộc hành trình lữ thứ trần gian. Thế nhưng một thực tế không phải là hiếm có, đó là một trong hai vô tình lại là một cản trở cho người kia trong bước đường phục vụ Chúa và tha nhân.

    Từ đó cho thấy giá trị nổi bật của đời sống độc thân khiến thánh Phaolô tông đồ phải lên tiếng: “Đàn ông không đàn bà là điều tốt” (1Cr 7,1), có nghĩa là không lập gia đình là điều tốt hơn (1cr 7,37-38) vì “thuộc trọn về Chúa (1Cr 7,33-34b), vì dễ “lo được ích chung” (1Cr 12,7) cũng như dễ dàng chuyên lo việc cầu nguyện (2Cr 7,5).


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các bậc hôn nhân biết luôn hợp tác và trợ lực nhau để tránh tình trạng Chúa đã tiên liệu có thể xảy ra trong gia đình (Lc 12,52-53).

    Suy niệm 4: Nghèo


    Cả hai bán cả tiệm buôn, chỉ giữ lại ít đất để cầy cấy trồng trọt đủ cho nhu cầu và phân phối đất đai còn lại cho các người nghèo.

    Thật dễ để chế nhạo người nghèo, và chà đạp phẩm giá con người mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Mẹ Têrêsa Calcutta thường đề cập đến sự nghèo túng như "sự đau khổ tiềm ẩn" của Đức Kitô.

    Chúng ta dễ khiến người khác cảm thấy là họ vô ích -- người nghèo, người bệnh hoạn, người tật nguyền thể xác cũng như tâm thần, người lớn tuổi, người thất nghiệp -- do đó, chống lại sự cám dỗ ấy đòi hỏi một mức độ đại lượng trong cuộc sống chúng ta. Nếu ai nấy cũng đều nhìn thấy Đức Kitô trong người nghèo như hai ông bà Luchesio, họ sẽ phong phú hóa Giáo Hội và giữ được sự trung tín với Thiên Chúa.


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn ghi khắc lời tâm huyết của Thánh Phanxicô: "Bất cứ ai nguyền rủa người nghèo là tổn thương đến Đức Kitô, vì họ đang mang hình ảnh của Người, hình ảnh của Đấng đã trở nên nghèo hèn vì chúng ta" (1 Celano, 76).

    Suy niệm 5: Tu trì


    Ông bà Luchesio lại muốn kiểu khác, họ muốn sống đời tu trì, nhưng bên ngoài tu viện.

    Để đáp ứng nhu cầu này, Thánh Phanxicô đã lập Dòng Phanxicô Thế Tục. Đầu tiên, thánh nhân viết một Quy Luật đơn giản cho Dòng Ba (Phanxicô Thế Tục), sau đó Đức Giáo Hoàng Honorius III đã chấp thuận một quy luật chính thức vào năm 1221.

    Đời sống tu trì thuộc về mầu nhiệm Hội Thánh. Đó là hồng ân Hội Thánh tiếp nhận từ Chúa và trao lại như một bậc sống ổn định cho tín hữu... Đời sống tu trì được mời gọi để bày tỏ đức ái của Thiên Chúa trong ngôn ngữ thời đại dưới nhiều dạng khác nhau (Sách Giáo Lý số 926).


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra ơn gọi Chúa đặt để cho mỗi người, và hết mình sống theo đấng bậc mình.

    Suy niệm 6: Truyền thống


    Truyền thống địa phương cũng gọi bà Buonadonna là "chân phước" dù rằng Tòa Thánh chưa chính thức công bố.

    Chúng ta phải phân biệt “Truyền Thống” các tông đồ với các “truyền thống” thuộc diện thần học, kỷ luật, phụng vụ hoặc sùng kính đã phát sinh theo thời gian trong các giáo đoàn địa phương...

    Chính trong ánh sáng truyền thống các tông đồ, mà các truyền thống này được giữ lại, sửa đổi hay bị loại bỏ, theo sự hướng dẫn của Huấn Quyền Hội Thánh (Sách Giáo Lý số 83).


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tôn trọng và tuân theo phán quyết của Huấn Quyền Tòa Thánh.
    Thiên Chúa không bao giờ bỏ mặc chúng ta. Người luôn có mặt trong những khốn cùng của chúng ta.

  16. Thành viên đã cảm ơn Teresa Nhỏ Bé vì bài viết này:

    Thánh Thư (19-04-2012)

  17. #49
    Teresa Nhỏ Bé's Avatar
    Trạng thái :   Teresa Nhỏ Bé đã thoát
    Tham gia : Jul 2011
    Bài gửi : 249
    Tên Thánh:
    Teresa Hài Đồng Giêsu
    Tên thật:
    Trần Thị Thanh Hà
    Đến từ: Giáo phận Bà Rịa
    Sở thích: Nhiều quá kể không hết......
    Nghề nghiệp: Việc không tên.....
    Cảm ơn
    3,454
    Được cảm ơn 1,788 lần
    trong 369 bài viết
    Ngày 23-04

    Thánh GEORGE




    (c. 304)


    Lược sử

    Người ta thường vẽ hình Thánh George đang giết con rồng để cứu thoát một phụ nữ xinh đẹp. Con rồng tượng trưng cho sự dữ. Người phụ nữ tượng trưng cho chân lý thánh thiện của Thiên Chúa. Thánh George là vị tử đạo can đảm đã chiến thắng sự dữ.

    Cuộc đời Thánh George thì đầy những huyền thoại đến nỗi thật khó để phân biệt thực hư. Người ta cho rằng Thánh George xuất thân từ Cappadocia thuộc Tiểu Á, là một sĩ quan trong đạo quân của Hoàng Đế La Mã Diocletian (245 -- 313), và là người được Hoàng Đế mến mộ.

    Lúc bấy giờ, Diocletian là người ngoại đạo và thù ghét Kitô Giáo. Ông giết bất cứ Kitô Hữu nào mà ông gặp. Thánh George là một Kitô Hữu can đảm, một người lính đích thực của Đức Kitô. Không sợ hãi, ngài đến gặp Hoàng Đế và nghiêm nghị quở trách sự tàn ác của ông. Sau đó ngài từ bỏ địa vị trong quân đội La Mã. Vì lý do đó ngài bị tra tấn bằng mọi cách khủng khiếp nhất và sau cùng bị chém đầu.

    Sự can đảm và hăng hái tuyên xưng đức tin của Thánh George đã đem lại niềm phấn khởi cho các Kitô Hữu thời ấy. Nhiều bài hát và bài thơ đã được sáng tác về vị tử đạo này. Đặc biệt, các quân nhân là những người sùng kính ngài.

    Ngài được phong thánh năm 494, Đức Giáo Hoàng Gelasius tuyên xưng ngài là một trong những người "mà tên tuổi thật xứng đáng để người đời kính trọng, và chứng từ tử đạo của ngài đáng để dâng lên Thiên Chúa."

    Thánh George được đặt làm quan thầy của nước Anh, Bồ Đào Nha, Đức, Aragon, Genoa và Venice.


    Lờ
    i Bàn

    Tất cả chúng ta đều có những "con rồng" để khuất phục. Nó có thể là sự kiêu ngạo, sự nóng giận, sự lười biếng, sự tham lam, hoặc bất cứ gì khác. Hãy biết rằng chúng ta chiến đấu những "con rồng" đó với sự trợ giúp của Thiên Chúa. Và rồi, chúng ta có thể tự hào mình là chiến sĩ đích thực của Ðức Kitô.

    ***
    SUY NIỆM
    (của Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ)



    Suy niệm 1: Con rồng


    Người ta thường vẽ hình Thánh George đang giết con rồng để cứu thoát một phụ nữ xinh đẹp.

    Con rồng tượng trưng cho sự dữ, vì nó cũng có những hành động thù nghịch đối với người Phụ Nữ như con Mãng Xà vốn đuổi bắt người Phụ Nữ đã sinh con trai... Từ miệng, Con Rắn phun nước ra đằng sau bà như một dòng sông, để cuốn bà đi. Nhưng đất cứu giúp bà... Con Mãng Xà nổi giận với người Phụ Nữ và đi giao chiến với những người còn lại trong dòng dõi bà, là những người tuân theo các điều răn của Thiên Chúa và giữ lời chưng của Đức Giêsu. (Kh 12, 13-18).

    Tất cả chúng ta đều có những "con rồng" để khuất phục. Nó có thể là sự kiêu ngạo, sự nóng giận, sự lười biếng, sự tham lam, hoặc bất cứ gì khác. Hãy biết rằng chúng ta chiến đấu những "con rồng" đó với sự trợ giúp của Thiên Chúa. Và rồi, chúng ta có thể tự hào mình là chiến sĩ đích thực của Đức Kitô.


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn công tác với ơn Chúa, để chiến thắng được những con rồng đang hoành hành nơi chúng con.

    Suy niệm 2: Phụ nữ


    Người ta thường vẽ hình Thánh George đang giết con rồng để cứu thoát một phụ nữ xinh đẹp.

    Người phụ nữ tượng trưng cho chân lý thánh thiện của Thiên Chúa, với nhiều vẻ đẹp khác nhau. Chẳng hạn bà Rút diễn đạt đạo hiếu của Thiên Chúa (R 1,16-17), còn bà Giuđích thì lòng yêu thương thủy chung (Gđt 16,22), bà Tabitha có nghĩa là Linh Dương thì lòng nhân ái và phục vụ (Cv 9,36).

    Riêng Đức Maria là người nữ tin yêu tuyệt vời (Lc 1,45), luôn sống và thực hành lời Chúa (Mt 12,50;Lc 11,28), say mê đời sống cầu nguyện được biểu lộ đậm nét qua bài ca Ngợi Khen (Lc 1,46tt), cũng như quan tâm hết mình đến nhu cầu tha nhân (Ga 2,3).


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp giới phụ nữ sống trọn chức năng làm khí cụ biểu lộ nét đẹp của Thiên Chúa.

    Suy niệm 3: Chính quyền


    Thánh George xuất thân từ Cappadocia thuộc Tiểu Á, là một sĩ quan trong đạo quân của Hoàng Đế La Mã Diocletian (245 -- 313), và là người được Hoàng Đế mến mộ.

    Dầu được Hoàng Đế mến mộ, nhưng Thánh George đến gặp Hoàng Đế và nghiêm nghị quở trách sự tàn ác của ông. Sau đó ngài từ bỏ địa vị trong quân đội La Mã. Vì lý do đó ngài bị tra tấn bằng mọi cách khủng khiếp nhất và sau cùng bị chém đầu.

    Thánh Gioan Tiền Hô cũng không hề nể sợ uy quyền của vua Hêrôđê. Thấy đức vua vi phạm luật hôn nhân, ngài thẳng thắn ra lệnh cấm đoán đức vua như một kẻ có uy quyền: “Vua không được phép lấy vợ của anh” (Mc 6,18) dầu sau đó phải chuốc lấy hậu quả khốc liệt cho mình là bị bỏ tù và bị chém đầu (Mc 6,17.27).


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng sợ kẻ giết được thân xác mà phải sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục (Mt 10,28).

    Suy niệm 4: Lính Đức Kitô


    Thánh George là một Kitô Hữu can đảm, một người lính đích thực của Đức Kitô.

    Ngài là lính nhưng là người lính đích thực của Đức Kitô, vì ngài đã chẳng những nghiêm nghị quở trách sự tàn ác của hòang đế mà còn từ bỏ địa vị trong quân đội La Mã, cho dầu phải bị tra tấn bằng mọi cách khủng khiếp nhất và sau cùng bị chém đầu, để nói lên lòng trung tín với Đức Kitô.

    "Mỗi khi nhìn đến đời sống của những người đã trung tín theo Đức Kitô, chúng ta lại có thêm một lý do nữa để phấn khởi tìm kiếm Thành Thánh tương lai" (Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội, 50).


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn trung tín với Chúa hơn bất cứ một ai hoặc một điều gì khác.

    Suy niệm 5: Phấn khởi


    Sự can đảm và hăng hái tuyên xưng đức tin của Thánh George đã đem lại niềm phấn khởi cho các Kitô Hữu thời ấy.

    Xét về mặt đời, một con én không làm nên mùa xuân, nhưng xét về mặt thiêng liêng thì khác. Duy chỉ đời sống mẫu gương của thánh Georges trong việc tuyên xưng đức tin đã tạo nên nguồn phấn khích cho mọi Kitô Hữu thời ấy.

    Cũng thế, duy chỉ một mình cậu trẻ Đavít can đảm tuyên chiến và hạ gục được tướng khổng lồ Gôliát cũng đem lại an bình cho cả toàn quân dân Ítraen, khiến các phụ nữ trong hết mọi thành ca hát nhảy múa mừng reo: “Vua Saun hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn” (1Sm 18,6-7).


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn can đảm sống tốt như đóa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

    Suy niệm 6: Sùng kính


    Nhiều bài hát và bài thơ đã được sáng tác về vị tử đạo này. Đặc biệt, các quân nhân là những người sùng kính Thánh George.

    Vì Thánh George xuất thân từ quân đội nên các quân nhân sùng kính ngài với niềm vinh dự là điều dễ hiểu. Nhưng lý do mà Thánh George được sùng kính không phải vì là quận nhân mà nhất là vì đời sống mẫu gương về việc tuyên xưng đức tin.

    Chính vì thế các Kitô Hữu thời ấy chứ không riêng gì các quân nhân đều phấn khởi khi thấy sự can đảm và hăng hái tuyên xưng đức tin của Thánh George. Nếu đã thế thì không chỉ các Kitô Hữu thời ấy mà ở mọi thời đều phải nêu cao mẫu gương ấy, do đó năm 494, Đức Giáo Hoàng Gelasius tuyên xưng ngài là một trong những người "mà tên tuổi thật xứng đáng để người đời kính trọng, và chứng từ tử đạo của ngài đang để dâng lên Thiên Chúa".

    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấu hiểu tâm ý của Tòa Thánh để luôn sùng kính Thánh George bằng việc sống theo gương sáng của ngài.
    Thiên Chúa không bao giờ bỏ mặc chúng ta. Người luôn có mặt trong những khốn cùng của chúng ta.

  18. #50
    Teresa Nhỏ Bé's Avatar
    Trạng thái :   Teresa Nhỏ Bé đã thoát
    Tham gia : Jul 2011
    Bài gửi : 249
    Tên Thánh:
    Teresa Hài Đồng Giêsu
    Tên thật:
    Trần Thị Thanh Hà
    Đến từ: Giáo phận Bà Rịa
    Sở thích: Nhiều quá kể không hết......
    Nghề nghiệp: Việc không tên.....
    Cảm ơn
    3,454
    Được cảm ơn 1,788 lần
    trong 369 bài viết
    Ngày 24-04

    Thánh FIDELIS SIGMARINGEN

    (1578-1622)




    Lược sử

    Nếu có người nghèo cần đến quần áo, Thánh Fidelis thường lấy ngay quần áo của mình đang mặc mà chia sẻ cho họ. Sự hoàn toàn độ lượng là đặc tính của cuộc đời thánh nhân.

    Sinh năm 1578 trong một gia đình giầu có ở Sigmaringen, Thánh Fidelis có tên gọi là Mark Rey, ngay từ nhỏ rõ ràng ngài đã có những khả năng đặc biệt. Sau khi được vinh dự nhận bằng tiến sĩ triết và luật tại Đại Học Freeburg, Mark Rey cùng với ba người bạn đi khắp Âu Châu trong vòng sáu năm. Ngài hành nghề luật sư, và các thân chủ đều mến mộ sự khôn ngoan và công chính của ngài. Nhưng dần dà ngài cảm thấy ghê tởm sự thối nát trong giới đồng nghiệp, và khi được hối lộ để kéo dài một vụ kiện ngài đã quyết định đi tu, gia nhập dòng Phanxicô và lấy tên Fidelis. Tài sản của ngài được chia cho người nghèo và nhà dòng.

    Với quyết tâm rao giảng cho mọi người biết về đức tin chân thật, sau khi thụ phong linh mục, Cha Fidelis được phép hoạt động truyền giáo cho người Tin Lành, đó là một công việc đầy nguy hiểm trong thời ấy. Ngài chuẩn bị cho sứ vụ này bằng việc học hỏi, viết lách, cầu nguyện và hãm mình. Với những lời đầy nhiệt huyết ngài bài bác lạc thuyết của Calvin và Zwingli. Nhiều người Tin Lành cũng như người Công Giáo sa ngã đã trở về với đức tin Công Giáo.

    Sau đó Cha Fidelis làm Giám Đốc của một tu viện và là nguồn khai sáng cho các tu sĩ với tinh thần chiêm niệm luôn bao trùm nhà dòng. Chính ngài và các thầy chăm sóc các quân nhân về thể xác cũng như tinh thần khiến các sĩ quan Tin Lành tức giận.

    Có lần ngài nói với một linh mục bạn về hai điều ước của ngài; một là được ơn không bao giờ phạm tội trọng, và hai là được chết vì Đức Tin. Thiên Chúa đã nhận lời ngài.

    Trong ba năm, ngài được Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XV sai đến Thetia hoạt động và ngài hoán cải rất nhiều người. Các giáo sĩ theo phái Calvin xách động dân chúng, và vào ngày 24 tháng Tư 1624, đó là lần rao giảng chót của Cha Fidelis. Khi ngài vừa lên toà giảng để nói về "Một Thiên Chúa, Một Đức Tin, Một Phép Rửa", đám đông la ó phản đối, họ lôi ngài ra khỏi nhà thờ và dùng gậy gộc đánh đập và dùng gươm đâm ngài chết.


    Lờ
    i Bàn

    Sự liên lỉ cầu nguyện của Thánh Fidelis đã giữ ngài luôn trung thành với Thiên Chúa và không nhượng bộ sự lãnh đạm và thờ ơ. Người ta thường nghe ngài nói, "Khốn cho tôi, nếu tôi chỉ là một người lính thiếu tận tâm phục vụ vị Thủ Lãnh đội mão gai." Sự cầu nguyện đối với sự thờ ơ, và sự lưu tâm đối với người nghèo đã khiến thánh nhân trở nên một gương mẫu có giá trị cho ngày nay. Giáo Hội thường kêu gọi chúng ta hãy noi gương người "luật sư của người nghèo" này bằng cách chia sẻ tài năng chúng ta với những người kém may mắn, và hoạt động cho sự công bằng của thế giới.

    ***
    SUY NIỆM
    (của Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ)




    Suy niệm 1: Bác ái


    Sự hoàn toàn độ lượng là đặc tính của cuộc đời thánh nhân.

    Tinh thần độ lượng của Thánh Fidelis được biểu lộ trong nhiều việc, cụ thể nếu có người nghèo cần đến quần áo, ngài thường lấy ngay quần áo của mình đang mặc mà chia sẻ cho họ.

    Vì độ lượng là đặc tính của cuộc đời thánh nhân, nên dầu là đang là tân tòng, thánh Martinô thành Turinô đã chia cắt phân nửa áo choàng đang mặc của mình cho người hành khất đang nằm rét run bên vệ đường giữa đêm đông giá lạnh.


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con có một đức tin mạnh mẽ để nhận ra Chúa đang hiện diện nơi tha nhân hầu dễ dàng thực thi đức ái yêu người.

    Suy niệm 2: Luật sư


    Thánh Fidelis hành nghề luật sư, và các thân chủ đều mến mộ sự khôn ngoan và công chính của ngài.

    Nhưng dần dà ngài cảm thấy ghê tởm sự thối nát trong giới đồng nghiệp, và khi được hối lộ để kéo dài một vụ kiện ngài đã quyết định đi tu, gia nhập dòng Phanxicô và lấy tên Fidelis.

    Ngài quyết định rời bỏ nghề luật sư vì không phù hợp với đường hướng của Giáo Hội mà Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1971 nhắc lại: "Hành động vì sự công bằng và tham dự trong việc biến đổi thế gian thực sự là một yếu tố cơ bản trong việc rao giảng phúc âm hoặc, nói cách khác, trong sứ vụ của Giáo Hội để cứu chuộc loài người và giải thoát con người khỏi mọi áp bức" ("Sự Công Bằng Trong Thế Giới," Thượng Hội Đồng Giám Mục, 1971).


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn noi gương người "luật sư của người nghèo" này bằng cách chia sẻ tài năng chúng con với những người kém may mắn, và hoạt động cho sự công bằng của thế giới.

    Suy niệm 3: Cầu nguyện


    Thánh Fidelis chuẩn bị cho sứ vụ truyền giáo cho người Tin Lành bằng việc học hỏi, viết lách, cầu nguyện và hãm mình.

    Sự liên lỉ cầu nguyện của Thánh Fidelis đã giữ ngài luôn trung thành với Thiên Chúa và không nhượng bộ sự lãnh đạm và thờ ơ. Người ta thường nghe ngài nói: "Khốn cho tôi, nếu tôi chỉ là một người lính thiếu tận tâm phục vụ vị Thủ Lãnh đội mão gai."

    Sự cầu nguyện đối với sự thờ ơ, và sự lưu tâm đối với người nghèo đã khiến nhiều người Tin Lành cũng như người Công Giáo sa ngã trở về với đức tin Công Giáo, nhờ đó thánh nhân trở nên một gương mẫu có giá trị cho ngày nay.


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sử dụng lợi khí cầu nguyện để đứng vững trong đức tin và giúp người sai lạc trở về ràn chiên Chúa.

    Suy niệm 4: Lạc thuyết Zwingli


    Với những lời đầy nhiệt huyết Thánh Fidelis bài bác lạc thuyết của Calvin và Zwingli.

    Zwingli chủ trương công chính hóa bằng nguyên đức tin nhưng dựa trên Thánh Ý Thiên Chúa. Ý Chúa được biểu hiện trong Thánh Kinh và được tự do giải thích dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

    Ngoài ra Zwingli còn từ chối Thánh Truyền và các luật lệ Giáo Hội cũng như đánh giá Tiệc Ly chỉ là một kỷ niệm, bánh thánh chỉ là tượng trưng.


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín Hội Thánh duy nhất của Đức Kitô là Hội Thánh Công Giáo do vị kế nhiệm Phêrô và các giám mục hiệp thông với ngài điều khiển (Sách Giáo Lý số 816).

    Suy niệm 5: Ước nguyện


    Có lần Thánh Fidelis nói với một linh mục bạn về hai điều ước của ngài; một là được ơn không bao giờ phạm tội trọng, và hai là được chết vì Đức Tin. Thiên Chúa đã nhận lời ngài.

    Liên quan đến việc phạm tội, thân mẫu của thánh Louis IX vua nước Pháp cũng có một ước nguyện được thể hiện trong việc thường nhắc nhở con mình: Mẹ thà thấy con chết trườc mặt mẹ còn hơn thấy con phạm tội.

    Còn thánh trẻ Đaminh Saviô thì nuôi sống chí nguyện được bày tỏ trong quyết tâm: Thà chết chứ không thà phạm tội. Và dĩ nhiên quyết tâm này đã được hiện thực nơi bao vị anh hùng tử đạo dầu có thể các ngài đã chưa một lần nói ra thành lời.

    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không nói nhưng sống mãi chí nguyện thà chết chứ không thà phạm tội.

    Suy niệm 6: Chết khi hành sự


    Khi Thánh Fidelis vừa lên toà giảng để nói về "Một Thiên Chúa, Một Đức Tin, Một Phép Rửa", đám đông la ó phản đối, họ lôi ngài ra khỏi nhà thờ và dùng gậy gộc đánh đập và dùng gươm đâm ngài chết.

    Một trong hai ước nguyện của Thánh Fidelis là được chết vì đức tin, và ngài đã được nhận lời, trong khi thi hành sứ mạng rao truyền các chân lý đức tin trên tòa giảng.

    Các giáo sĩ theo phái Calvin xách động dân chúng và đám đông la ó phản đối và giết chết ngài. Một tình cảnh tái diễn tương tự như Đức Giêsu cũng bị các đầu mục Dothái xúi giục quần chúng và họ đồng thanh xin quan Philatô tha Baraba và giết chết Ngài bằng bản án tử hình thập giá (Mt 27,20).


    * Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn kiên tâm thi hành bổn phận để cũng được chết khi hành sự.
    Thiên Chúa không bao giờ bỏ mặc chúng ta. Người luôn có mặt trong những khốn cùng của chúng ta.

+ Trả Lời Ðề Tài
Trang 5/6 ĐầuĐầu ... 3456 cuốicuối

Chủ đề tương tự

  1. Tình bạn và tình yêu trong đời tu
    By hoaithuong253 in forum Lối sống - Ơn gọi
    Trả lời: 3
    Bài mới gửi: 03-03-2012, 08:46 PM
  2. 7 Ngày Trong Tuần
    By hoaithuong253 in forum Bài Tổng Hợp
    Trả lời: 0
    Bài mới gửi: 03-02-2012, 07:38 AM
  3. Xuân trong ký ức
    By Lan Anh in forum Gia Đình và Cuộc Sống
    Lan Anh
    Trả lời: 1
    Bài mới gửi: 04-01-2012, 05:42 PM
  4. Ba điều giá trị trong cuộc sống
    By mai_socola90 in forum Bài Tổng Hợp
    Trả lời: 3
    Bài mới gửi: 16-08-2011, 06:07 PM
  5. Có phải một trong 2 tên trộm bị đóng đinh cùng Chúa Giê Su bị oan không?
    By terexanguyen in forum Góp ý|Thắc mắc|Thảo luận
    Trả lời: 4
    Bài mới gửi: 12-12-2010, 01:52 AM

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình