Sự thật lịch sử là gì? Sự thật lịch sử là một quả bóng tròn: mỗi người chỉ nhìn được một phía. Sử gia Fustel de Coulanges (1830-1889) còn ví Lịch sử như là một tòa nhà Quốc Hội lập pháp, cũng có phe trái, phe phải, phe trung dung, phe nào cũng tự cho mình là đúng cả. Do đó mới phát sinh ra bộ môn khảo sử (critique historique), trong khi tra khảo vấn đề lịch sử nào đó thì: lời đồn đãi, truyền khẩu, ca dao, thơ văn, truyện cổ tích, truyền thuyết, huyền thoại v.v. chỉ có thể gợi ý cho nhà sử học trên đường tìm tòi phát hiện sự thật lịch sử. Nhưng không thể coi chúng là sự thật lịch sử trước khi tìm ra những bằng chứng xác thực nhất. Khi đã tìm ra sự thật lịch sử phù hợp với nội dung của những tài liệu trên thì đó là những bằng chứng tốt nhất và trung thực nhất về giai đoạn lịch sử đó. Nếu không phản ánh sự thật lịch sử thì chúng vẫn cứ là ca dao, thơ văn … và vẫn rất có giá trị nếu chúng có lời hay ý đẹp. Kể cả thơ văn của những nhân vật nổi tiếng cũng vậy, vẫn có thể không sát đúng với sự thật lịch sử, vì họ cốt chú trọng đến chủ đề trong thơ văn của mình. Không ít tác phẩm văn học nổi tiếng đã mượn đề tài lịch sử để chuyển tải ý tưởng của tác giả. Xin nêu một ví dụ :
- Dương Quý Phi có tên là Dương Ngọc Hoàn, nguyên là vợ của Thọ Vương Lý Mạo, con trai thứ 18 của Đường Minh Hoàng. Năm 25 tuổi, bà xuất gia làm nữ đạo sĩ (tu sĩ của Đạo giáo, mà ở ta thường gọi là đạo Lão), với pháp danh là Thái Chân, để từ đó bước vào hậu cung của Đường Huyền Tông cho khỏi mang tiếng loạn luân. Chẳng bao lâu, bà được phong làm Quý Phi, địa vị chỉ kém hoàng hậu một bậc nhưng được hưởng thụ và sủng ái hơn hẳn hoàng hậu. Lai lịch của bà ta như thế, ai cũng biết, nhưng ở bài “Trường hận ca”, nhà thơ Bạch Cư Dị này đã viết như sau:
Hán hoàng trọng sắc tư khuynh quốc
Ngự vũ đa niên cầu bất đắc
Dương gia hữu nữ sơ trưởng thành
Dưỡng tại thâm khuê nhân vị thức
Thiên sinh lệ chất nan tự khí
Nhất triêu tuyển tại quân vương trắc.
……………………………….
Nhà thơ Tản đà đã dịch như sau:
Đức vua Hán mến người khuynh quốc,
Trải bao năm tìm chuốc công tai.
Nhà Dương có gái mới choai,
Buồng xuân khoá kín chưa ai bạn cùng.
Lạ gì của tuyết đông ngọc đúc,
Chốn ngai vàng phút chốc kề bên.
…………..
Cứ theo lời thơ này thì trước khi vào cung, Dương Ngọc Hoàn là cô gái đồng trinh. Bạch Cư Dị (772-864) là một nhà thơ vĩ đại có học vấn uyên bác, từng đỗ tiến sĩ, kém Dương Quí Phi 53 tuổi. Hẳn ông chẳng lạ gì lai lịch của bà ấy. Trong bài thơ nổi tiếng này, chủ yếu ông chê trách thói ăn chơi hưởng lạc hiếu sắc của Đường Minh Hoàng để đến nỗi sắp sụp đổ cơ đồ, và ông có phần thương xót cho số phận của Dương Quý Phi khi bà bị quân lính và các tướng lĩnh đổ tội rồi bắt phải thắt cổ ở Mã Ngôi . Vì vậy, ông bỏ qua những nét không đẹp trong lý lịch của bà ta để khỏi làm mờ nhạt chủ đích của bài thơ. Mọi người đều coi đây là một kiệt tác của Bạch Cư Dị và không ai chê trách ông về việc viết không đúng tiểu sử của Dương Quý Phi, bởi vì đây là bài thơ chứ không phải là bài giảng lịch sử.
Thế nên những lời đồn đoán hay truyền miệng hẳn đã tin cậy được. Các nhà nghiên cứu lịch sử khi tìm hiểu về một giai đoạn hay về một nhân vật nào đó đều chú trọng trước tiên đến các tài liệu ghi chép về chính sử dạng văn bản còn tồn tại. Cần phân biệt "chính sử" và "huyền sử" hay "dã sử" vì có thể trong các tài liệu chính sử cũng ghi chép về huyền sử nữa. Điển hình là quan niệm "4000 năm văn hiến" của dân tộc Việt Nam
Hùng Vương đời thứ nhất là con trai của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Truyền thuyết được ghi lại trong "Lĩnh Nam chích quái" thời Trần kể rằng Âu Cơ kết hôn với Lạc Long Quân, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con trai. Về sau, Lạc Long Quân chia tay với Âu Cơ; 50 người con theo cha xuống biển, 50 người con theo mẹ lên núi. Người con cả được tôn làm vua, gọi là Hùng Vương. Hùng Vương đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (Phú Thọ), truyền ngôi được 18 đời, đều gọi là Hùng Vương. Về sau, một số biên niên sử Việt Nam đã chép thời đại huyền thoại này vào chính sử như "Đại Việt sử lược" (thời Trần), "Đại Việt sử kí toàn thư" (thời Lê). "Đại Việt sử lược" xếp Hùng Vương ngang với Trang Vương của triều Chu của Trung Quốc, tức khoảng 696 - 682 Tr.CN. "Đại Việt sử kí toàn thư" thì chép từ Kinh Dương Vương đến hết đời Hùng Vương cuối cùng vào Kỉ Hồng Bàng thị, tổng số là 2.622 năm, từ năm Nhâm Tuất đến năm Quý Mão. Năm Quý Mão được ghi rõ là tương ứng với năm thứ 27 đời Chu Noãn Vương của Trung Quốc, tức năm 258 tcn. Từ đó, có thể tính ra năm Nhâm Tuất là năm 2879 Tr.CN. Cũng từ cách ghi chép của "Đại Việt sử kí toàn thư" mà người ta nói là thời đại Hùng Vương cách chúng ta 4.000 năm. Chúng ta chưa có cứ liệu để biết các sách biên niên sử nói trên đã dựa vào căn cứ nào để ghi chép như vậy.
Ngày nay, nhiều người cho rằng thời đại Hùng Vương với quan niệm thời gian tồn tại như trên, là tương ứng với thời kì Tiền Đông Sơn và Đông Sơn mà các nhà khảo cổ học đã đưa ra. Thời kì Tiền Đông Sơn, thuộc thời đại đồng thanh (ngành khảo cổ quen gọi là đồng thau), bắt đầu bằng văn hoá Phùng Nguyên, cũng có niên đại cách ngày nay khoảng 4.000 năm. Có thể coi đó là thời kì hình thành cái lõi đầu tiên của người Việt cổ. Nhưng các nhà sử học và khảo cổ học cho rằng chỉ đến thời kì văn hoá Đông Sơn mới có thể nói đến sự hình thành nhà nước. Văn hoá Đông Sơn hiện nay được coi là thuộc thời đại sắt và tồn tại trong khoảng thế kỉ 7 Tr.CN. đến thế kỉ 2 SCN. Vì vậy, nếu coi nước Văn Lang của Hùng Vương như một nhà nước thực sự thì có thể bắt đầu vào khoảng thế kỉ 7 Tr.CN, và điều đó phù hợp với sự ghi chép của sách "Đại Việt sử lược".
Như thế thì khi xét đến một sự kiện hay một nhân vật nào đó trong lịch sử, dù có trong tay các tài liệu ghi chép về chính sử dạng văn bản còn tồn tại, các nhà nghiên cứu lịch sử cũng phải đối chiếu giữa nhiều nguồn khác nhau.
Đức Giêsu, một nhân vật đã đi vào huyền thoại và là huyền thoại bất tử trong lịch sử thế giới. Mượn lời của một vị thánh trong GHCG, thánh Jerome “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô. Ignorance of Scripture is ignorance of Christ !”. Nhưng không vì thế mà các nhà nghiên cứu lịch sử, cũng như tư tưởng khi nghiên cứu về Đức Giêsu chỉ dựa vào một nguồn duy nhất là Kinh Thánh. Hãy bỏ qua một bên niềm tin của các Kitô hữu về thân thế và cuộc đời của Đức Giêsu là : Con Thiên Chúa xuống thế làm người, đã chết trên cây thập tự và đã phục sinh vinh hiển. Chúng ta chỉ xét về sự hiện diện của Người và thân thế của Người qua những tài liệu lịch sử ngoài Kitô giáo, và cũng đồng thời đối chiếu với các tài liệu của Kitô giáo viết về Người.