+ Trả Lời Ðề Tài
Hiện kết quả từ 1 tới 5 của 5

Chủ đề: Đại Hội Dân Chúa - Chúa Nhật 21/11/2010

  1. #1
    Forever's Avatar
    Trạng thái :   Forever đã thoát
    Tham gia : Nov 2010
    Bài gửi : 19
    Tên thật:
    Lê Minh Thanh
    Đến từ: Giáo Xứ Thánh Mẫu Hòa Bình - Tây Ninh
    Sở thích: Nghe Nhạc
    Nghề nghiệp: Lang Thang
    Cảm ơn
    31
    Được cảm ơn 35 lần
    trong 16 bài viết
    Chúa ơi từ nay con sẽ mãi yêu cuộc sống này
    Mãi đến phút giây đời vĩnh viễn xa cách con !

  2. #2
    giotrendong's Avatar
    Trạng thái :   giotrendong đã thoát
    Tham gia : Aug 2010
    Bài gửi : 71
    Tên thật:
    ham chơi
    Đến từ: Đồng cỏ xanh
    Sở thích: sinh hoạt, ăn 1 lần 10 cây kem và 4 phần chả lụi,......chơi thể thao xả stresss...
    Nghề nghiệp: thiếu nhi
    Cảm ơn
    229
    Được cảm ơn 458 lần
    trong 75 bài viết

    Đại Hội Dân Chúa 2010

    Ngày Chúa Nhật 21-11-2010

    14g00: Tiếp đón các đại biểu tại khuôn viên Đại chủng viện thánh Giuse. Sau khi nhận phòng, các đại biểu có dịp tham quan một vòng khu vực làm việc và sinh hoạt. Các đại biểu nhận tài liệu, chương trình làm việc và tập sách sử dụng cho các nghi thức phụng vụ. Riêng các linh mục thuộc các giáo phận khác nhận alba và stola để chuẩn bị cử hành lễ khai mạc.




    17g15: Thánh lễ đồng tế Khai mạc Đại Hội Dân Chúa 2010 tại Nhà thờ Chính tòa Sài Gòn. Trong bầu khí trang trọng và ấm cúng, các thành phần dân Chúa qui tụ đông đảo và đi rước từ phía ngoài tượng đài Đức Mẹ Hoà Bình vào nhà thờ để tham dự Thánh lễ Khai mạc.



    Các Đức Giám Mục đi từ nhà xứ Chánh Toà, đã dừng lại cầu nguyện và xông hương trước tượng đài Đức Mẹ Hoà Bình trước khi tiến vào nhà thờ.

    Đồng tế trong Thánh lễ có Đức Hồng y, các Giám mục và các linh mục đến từ 26 Giáo phận. Các nam nữ tu sĩ trong tu phục với nhiều sắc màu, còn các đại diện giáo dân với âu phục và những tà áo dài truyền thống… Phía sau các đại biểu là cộng đoàn giáo dân đông chật nhà thờ. Tất cả cùng nhau hiệp lòng hiệp ý trong một cuộc cử hành long trọng và sốt sắng.

    https://daihoidanchua.net/sites/default/files/04.jpg

    Trong bài giảng lễ, Đức Tổng Giám mục Phêrô Nguyễn văn Nhơn, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục VN mời gọi các tham dự viên của Đại hội Dân Chúa chiêm ngắm hình ảnh Đức Giêsu Kitô Vua, một chân dung đầy nghịch lý, nơi ô nhục và vinh quang đan xen vào nhau, Đấng đã hạ mình xuống và được Thiên Chúa tôn vinh… Điều đó gợi hứng cho những ngày làm việc của Đại hội. Ngài cũng nhắc đến Giáo Hội là cộng đoàn vượt qua và lữ hành, nơi đó chính Đức Giêsu Kitô luôn hiện diện, làm cho đau khổ và thập giá trở nên sự sống.




    Đức Tổng Giám mục Phêrô cũng nhận ra một sự trùng hợp khi ĐGH Bênêđitô XVI trong Sứ điệp ngày Thế giới Truyền giáo năm 2010 đã triển khai đề tài xây dựng sự hiệp thông trong Giáo Hội là chìa khoá của việc truyền giáo. Điều đó cho thấy tính hợp thời của 3 trục suy tư được đề ra cho Giáo Hội Việt Nam trong năm thánh 2010: Mầu Nhiệm – Hiệp Thông – Sứ Vụ… Kết thúc bài giảng, nhân danh Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, ĐTGM Phêrô đã long trọng tuyên bố KHAI MẠC ĐẠI HỘI DÂN CHÚA VIỆT NAM NĂM 2010.

    Sau Thánh lễ, các vị đại biểu lên xe trở về Đại Chủng viện thánh Giuse dùng cơm tối. Thời gian còn lại trôi qua trong bầu khí trầm lắng, các tham dự viên dành thời gian gặp gỡ trao đổi, hoặc đọc qua các tài liệu để chuẩn bị cho ngày làm việc đầu tiên vào thứ hai.

    Cảm tạ Chúa vì Thánh lễ khai mạc đã diễn ra trang trọng như một Lễ Hội Phụng Vụ để mọi tham dự viên hiệp nhau cảm tạ và tôn vinh Thiên Chúa, và như lời Đức Tổng Giám mục Phêrô gợi ý, mọi người cùng bước vào một cuộc Hội Ngộ Gia Đình đầy tình huynh đệ, đồng thời đó cũng là một Diễn Đàn rộng mở để mọi thành phần Dân Chúa góp tiếng nói của mình trong việc xây dựng Giáo Hội trên quê hương Việt Nam.

    _----------------
    Đại Hội Dân Chúa

  3. #3
    giotrendong's Avatar
    Trạng thái :   giotrendong đã thoát
    Tham gia : Aug 2010
    Bài gửi : 71
    Tên thật:
    ham chơi
    Đến từ: Đồng cỏ xanh
    Sở thích: sinh hoạt, ăn 1 lần 10 cây kem và 4 phần chả lụi,......chơi thể thao xả stresss...
    Nghề nghiệp: thiếu nhi
    Cảm ơn
    229
    Được cảm ơn 458 lần
    trong 75 bài viết

    Tham luận của ĐGM Giuse Nguyễn Năng, GP. Phát Diệm: Chiều kích mầu nhiệm của Giáo hội

    Tham luận của ĐGM Giuse Nguyễn Năng, GP. Phát Diệm: Chiều kích mầu nhiệm của Giáo hội

    CHIỀU KÍCH MẦU NHIỆM CỦA GIÁO HỘI



    Giáo hội mầu nhiệm là ý niệm chìa khoá đã được Công đồng Vaticanô II đặt làm nền tảng cho toàn bộ giáo hội học. Quả vậy, chương đầu tiên của Hiến chế Tín lý về Giáo hội,Lumen Gentium, đã bàn về mầu nhiệm Giáo hội như một định hướng cho mọi khai triển về đời sống và sứ vụ của Giáo hội. Đại hội Dân Chúa muốn suy tư về đời sống và sứ vụ của Giáo hội tại Việt Nam cũng không thể đi ra ngoài định hướng cơ bản ấy. Bài trình bày này sẽ quảng diễn đề tài trên bình diện thần học, đồng thời cũng nêu lên một ít gợi ý trên bình diện mục vụ để suy tư và thảo luận.

    I. GIÁO HỘI, MỘT THỰC TẠI PHỨC HỢP

    Từ ngữ “mầu nhiệm” áp dụng vào Giáo hội không chỉ có nghĩa là bí ẩn, khó hiểu. Dĩ nhiên, Kitô giáo có những mầu nhiệm. Nội dung giáo lý Kitô giáo sẽ không thể đánh động, lôi cuốn chúng ta và làm cho chúng ta say mê, nếu trong đó không có những mầu nhiệm. Tuy nhiên từ ngữ “mầu nhiệm” ở đây muốn nói rằng Giáo hội“là một thực tại phức hợp, duy nhất, do yếu tố nhân loại và thần linh kết thành”[1].

    Hiến chế tín lý về Giáo hội giải thích như sau: cùng một lúc,“Giáo hội là xã hội tổ chức theo phẩm trật và là Nhiệm Thể Đức Kitô, là đoàn thể hữu hình và là cộng đoàn thiêng liêng, là Giáo hội tại thế và là Giáo hội dư tràn của cải trên trời”[2].

    Đã có lúc người ta nghiêng về quan niệm Giáo hội như một xã hội theo kiểu nhân loại, mộtsocietas, quá chú trọng đến những yếu tố hữu hình để chống lại quan niệm Giáo hội vô hình. Cũng có lúc quan niệm thần bí thắng thế, nhìn Giáo hội như là một sự nối dài của mầu nhiệm Nhập thể và dường như đồng hoá Giáo hội với Đức Kitô. Thực ra, Giáo hội chỉ là một thực tại duy nhất vừa có yếu tố nhân loại vừa có yếu tố thần linh[3].

    Cấu trúc thần linh và nhân loại, vô hình và hữu hình, của Giáo hội dựa trên nền tảng Kitô học. Giáo hội được sánh ví với mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể vì cả hai vừa có yếu tố thần linh vừa có yếu tố nhân loại. Tuy nhiên, trong khi Ngôi Lời nhập thể trong một nhân tính, thì Chúa Thánh Thần không nhập thể trong Giáo hội. Và Giáo hội cũng không phải là nhân tính phục vụ cho Ngôi Lời. Trái lại, Giáo hội là cơ cấu xã hội gồm những ngôi vị là các Kitô hữu phục vụ cho Thánh Thần của Đức Kitô, Đấng làm cho Giáo hội sống động để tăng triển Thân thể[4]. Cũng như Đức Kitô là Đầu đã sống nhờ Chúa Thánh Thần thế nào, Giáo hội là Thân thể cũng sống nhờ Chúa Thánh Thần như thế. Do đó, Giáo hội không phải là một xã hội hoàn toàn nhân loại, nhưng cũng không phải là nối dài mầu nhiệm nhập thể của Đức Giêsu, mà lànối dài mầu nhiệm Đức Kitô được xức dầu Thánh Thần.

    Như vậy, Giáo hội là một dân tộc, nhưng lại là dân của Thiên Chúa, và đồng thời cũng là Thân thể của Đức Kitô và là Đền thờ của Chúa Thánh Thần. Không thể chia cắt các khía cạnh phong phú đó của thực tại Giáo hội.

    Những khẳng định trên đây xem ra có tính lý thuyết, nhưng lại quan trọng vì là những nguyên lý nền tảng của đời sống Giáo hội. Bao nhiêu vấn đề phức tạp xuất hiện trong lịch sử Giáo hội có lẽ đều bắt nguồn từ chỗ chưa lưu tâm đúng mức đến chiều kích mầu nhiệm này.

    Có lúc người ta muốn thần thánh hoá Giáo hội, đồng hoá Giáo hội với chính Đức Kitô, đến độ có nguy cơ quên rằng Giáo hội là Dân Thiên Chúa còn đang lữ hành trong lịch sử. Không được lý tưởng hoá Giáo hội, không được quàng cho Giáo hội một vòng triều thiên giả tạo. Trong Giáo hội có những có những giới hạn, có những bất toàn và tội lỗi. Chân lý Tin Mừng đã được ban cho Giáo hội, nhưng các thành phần Dân Chúa còn đang từng ngày lần mò tìm kiếm để làm cho chân lý ấy thấm nhập vào mọi thực tại nhân sinh. Lãng quên khía cạnh nhân loại sẽ đưa tới thái độ tự cao đắc thắng và tạo nên cản trở cho công cuộc loan báo Tin Mừng. Đó chính là điều Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã nhắc nhở trong tông huấn Giáo hội tại châu Á:“Môn đệ Đức Kitô phải có tấm lòng hiền lành và khiêm nhường của Thầy mình, không bao giờ tỏ ra kiêu căng, không bao giờ có thái độ hạ cố của kẻ cả”[5]. Giáo hội không tìm cách thống trị, không tìm kiếm vinh quang trần thế, nhưng sống tinh thần phục vụ trong khiêm nhường và từ bỏ theo gương Đức Giêsu[6].

    Ngược lại, cũng nhiều khi người ta quan niệm Giáo hội như một xã hội qui tụ những con người cùng một niềm tin tôn giáo, một tập thể xã hội như bao nhiêu tập thể khác, không hơn không kém. Thực ra, Giáo hội ở giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Giáo hội không đi trên con đường của những cộng đoàn tự nhiên như gia đình, dân tộc, quốc gia, nhưng có con đường riêng của mình. Chính trị hoá Giáo hội là một sai lầm và sẽ đưa Giáo hội đi vào ngõ cụt. Giáo hội có lý do tồn hữu riêng, mục đích riêng, những tiêu chuẩn biện phân riêng, và những phương thế riêng của mình. Trong mọi thời đại và ở mọi nơi, đời sống và hoạt động của Giáo hội luôn phải quy chiếu về tiêu chuẩn uyên nguyên là Tin Mừng của Đức Giêsu.

    II. CÁC KHÍA CẠNH KHÁC NHAU CỦA GIÁO HỘI MẦU NHIỆM

    Từ nội dung căn bản trên, chiều kích mầu nhiệm của Giáo hội có thể được nhận ra qua các khía cạnh sau đây.

    1) Chúa Thánh Thần hoạt động trong Giáo hội

    Giáo hội được Đức Kitô sai đi để nối tiếp công cuộc cứu thế của Người: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21). Và để thực hiện sứ mạng này, Người đã thổi hơi để ban Thần Khí của Người cho Giáo hội (x. Ga 20, 22). “Cũng cùng một Đấng duy nhất hiện hữu nơi Đầu cũng như trong các chi thể”[7].

    Như vậy, Giáo hội sống bằng Thánh Thần của Đức Kitô. Chính Chúa Thánh Thần được ví như là “linh hồn” của Giáo hội[8], là Đấng khởi xướng mọi hoạt động trong Giáo hội, còn Giáo hội là tôi tớ phục vụ Ngài[9].

    Thánh Thần hoạt động nơi Giáo hội bằng cách ban ân sủng cho tất cả các Kitô hữu là những người đã lãnh nhận phép rửa, mỗi người nhận được “ân huệ tuỳ theo ý Ngài” (1Cr 12, 11). Chúa Thánh Thần là Đấng tự do tuyệt đối: “Gió muốn thổi đâu thì thổi” (Ga 3, 8). Lịch sử Giáo hội cho thấy các đoàn sủng do Thánh Thần tác động đã đem lại sự canh tân và sức sống cho Giáo hội. Đoàn sủng thì đa dạng, “từ những ơn phi thường đến những ơn bình thường”, nhưng tất cả đều do cùng một Thần Khí để các Kitô hữu “đảm nhận các công việc và nhiệm vụ khác nhau mưu ích cho việc canh tân và phát triển Giáo hội”. Giáo hội tại Việt Nam hôm nay cũng cần rộng mở để “đón nhận ân sủng Thánh Thần với lòng tri ân”[10].

    “Trong các ân huệ của Thánh Thần, ân sủng ban cho các Tông đồ đứng hàng đầu: chính Chúa Thánh Thần đặt dưới quyền các ngài cả những người lãnh nhận các đoàn sủng (x. 1 Cr 14)”[11]. Vì thế, phẩm trật trong Giáo hội chính là dấu chỉ hữu hình nơi đó Thánh Thần của Đức Kitô hoạt động đặc biệt. Thừa tác vụ tông đồ và quản trị không phải là một định chế nhân loại, nhưng là thiết định của Đức Kitô và là đặc sủng của Thánh Thần (x. 1Cr 12, 28). Các mục tử trong Giáo hội là “thừa tác viên của Đức Kitô” để “phục vụ Chúa Thánh Thần”[12]; các ngài sẽ không dập tắt Thần Khí, trái lại, có nhiệm vụ biện phân để phán quyết đâu là đoàn sủng thực sự của Thánh Thần[13].

    Như vậy, cũng cùng một Thánh Thần duy nhất là tác giả của phẩm trật cũng như của đoàn sủng, nhờ đó Ngài dẫn dắt Giáo hội[14]. Cả đoàn sủng lẫn phẩm trật đều là ân sủng và sứ mệnh, là ơn gọi và phục vụ. Nếu đặt nặng định chế cùng với những cơ cấu, luật lệ và quyền bính, Giáo hội sẽ trở thành nặng nề, không sức sống. Ngược lại, nếu quá đề cao đoàn sủng vô hình cùng với tự do cá nhân mà không có điểm qui chiếu hữu hình, thì Giáo hội cũng dễ rơi vào xáo trộn và chia rẽ.

    Cần có đức tin để nhận ra quyền năng của Thần Khí nơi các hoạt động của những con người trong Giáo hội. Đức tin giúp ta đọc lịch sử Giáo hội với lăng kính “mầu nhiệm”. Qua những thăng trầm của lịch sử loan báo Tin Mừng, Giáo hội tại Việt Nam đang từng bước tiến lên dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần. Có những bước chậm chạp làm cho những người nhiệt tình phải bức xúc. Có những khai phá làm cho nhiều người ngần ngại e dè. Những quyết định và hành động trong Giáo hội là của những con người sống vào một thời điểm cụ thể, với những khả năng và nhận thức giới hạn. Nhưng họ không quyết định và hành động một mình, trái lại, như lời sách Công vụ tông đồ, “Thánh Thần và chúng tôi quyết định ” (15, 28).

    Chúa Thánh Thần là Đấng dẫn dắt Giáo hội. Những trì trệ và khô cằn trong đời sống Giáo hội là do các thành phần Dân Chúa chưa ý thức đủ về vai trò của Thần Khí để vâng phục sự dẫn dắt của Ngài. Trong những năm gần đây, những khoá cầu nguyện, những tuần tĩnh tâm hoặc linh thao ngày càng có nhiều người tham dự, nhất là anh chị em giáo dân. Càng ngày các tín hữu càng cảm thấy khao khát được sống với Chúa Giêsu để học lắng nghe Thánh Thần. Đó là tín hiệu mùa xuân mới của Giáo hội tại Việt Nam.

    2) Giáo hội sống bằng sự sống của Thiên Chúa

    Giáo hội là Nhiệm Thể Đức Kitô, nên sự sống của Giáo hội là sự sống siêu nhiên. Giáo hội sống và tăng trưởng nhờ đón nhận sự sống của Thiên Chúa được ban tặng qua Đức Giêsu trong Chúa Thánh Thần.

    Chiều kích mầu nhiệm của Giáo hội được thể hiện qua việc cử hành phụng vụ. Qua các yếu tố hữu hình như các dấu chỉ và nghi thức của các thừa tác viên Giáo hội, Đấng vô hình là “Chúa Thánh Thần hoạt động trong lòng Giáo hội để chúng ta sống bằng sự sống của Ðức Kitô phục sinh. … Phụng vụ là công trình chung của Chúa Thánh Thần và Giáo hội”[15].

    Chúa Thánh Thần gợi nhớ mầu nhiệm Đức Kitô: “Qua các lời, các hành động và biểu tượng, dệt thành việc cử hành phụng vụ, Chúa Thánh Thần đưa các tín hữu và các thừa tác viên vào trong tương quan sống động với Đức Kitô”[16] để họ sống những những điều được cử hành trong phụng vụ. Hơn nữa, phụng vụ không chỉ gợi nhớ các biến cố cứu độ,“mà còn làm cho những biến cố đó hiện diện và tác động trong hiện tại. Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô đựơc cử hành chứ không phải được tái diễn... Chúa Thánh Thần làm cho mầu nhiệm duy nhất được hiện tại hoá”[17].

    Nhờ Thánh Thần, chính Đức Kitô hiện diện trong Giáo hội, đặc biệt trong Lời của Người và trong bí tích Thánh Thể[18]. Đây chính là lương thực thần linh nuôi sống Giáo hội.Nếu không dùng lương thực này, Giáo hội sẽ chết. Nếu hấp thụ lương thực khác, Giáo hội sẽ ngộ độc.

    Các tín hữu “sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn nhờ mọi lời Thiên Chúa phán ra” (Mt 4, 4). “Chúa Thánh Thần làm cho người đọc cũng như người nghe Sách Thánh hiểu được ý nghĩa thiêng liêng của Lời Chúa, tùy theo việc họ chuẩn bị tâm hồn”[19]. Lời Chúa là ánh sáng, niềm vui, sức mạnh và sự sống cho họ. Lời Chúa đã qui tụ và nối kết họ trong cùng một đức tin. Chính Tin Mừng đã biến đổi cuộc đời của họ và thúc đẩy họ gieo men Tin Mừng vào các thực tại xã hội.

    Vấn đề khẩn thiết được đặt ra hôm nay cho Giáo hội tại Việt Nam là làm thế nào để giúp mọi tín hữu yêu mến Lời Chúa, học hỏi và sống Lời Chúa. Các mục tử cần đầu tư nhiều hơn vào việc bồi dưỡng đức tin cho giáo dân để họ có thể sống đạo một cách trưởng thành, với một đức tin sáng suốt và một xác tín cá nhân mạnh mẽ.

    Nếu trong quá khứ một đức tin đơn thành, một niềm xác tín của người đơn sơ bé mọn, có thể đủ để nuôi sống các Kitô hữu, thì trong môi trường xã hội hôm nay, một đức tin như thế vẫn cần thiết nhưng không đủ để đứng vững trước ảnh hưởng của nền văn hoá hiện đại. Cũng như nhiều quốc gia khác, xã hội Việt Nam hôm nay cũng đang trên đà tục hoá, dửng dưng với tôn giáo và các giá trị đạo đức. Do đó, các tín hữu Việt Nam cần được đào tạo để trở thành môn đệ thực sự sống Tin Mừng của Đức Kitô.

    Điều đáng mừng là trong những năm gần đây, các chương trình học hỏi Lời Chúa và giáo lý đã được canh tân và đã thu hút một số đông tham dự, đặc biệt là giới trẻ. Tuy nhiên còn nhiều việc phải làm để việc học hỏi Lời Chúa và giáo lý trở thành niềm vui và sinh hoạt thường xuyên của mọi thành phần và mọi lứa tuổi.

    Cùng với Lời Chúa, Giáo hội còn được thông phần sự sống của Đức Kitô nhờ các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể.Ecclesia de Eucharistia: Giáo hội hiện hữu nhờ Thánh Thể, sống nhờ Thánh Thể và phục vụ theo khuôn mẫu Thánh Thể. Ai dự tiệc Thánh Thể sẽ được sống (x. Ga 6, 57). “Sự hiệp thông Thánh Thể làm cho Đức Kitô và môn đệ của Người lưu lại trong nhau”. Hơn nữa, “khi hiệp nhất với Đức Kitô, Dân của Giao ước mới không khép kín lại nhưng trở thành «bí tích» cho nhân loại, thành dấu hiệu và dụng cụ của ơn cứu độ được Đức Kitô ban cho, thành ánh sáng thế gian (x. Mt 5,13-16) để cứu rỗi mọi người”[20].

    Những chân lý này không phải là lý thuyết, nhưng đã được chứng nghiệm bằng chính cuộc sống của các cá nhân cũng như cộng đoàn Kitô hữu Việt Nam qua các thời kỳ. Quả vậy, làm sao có thể lý giải được sự tồn tại và trưởng thành của Giáo hội tại Việt Nam nếu không tin rằng có một sức sống thần thiêng đã nuôi dưỡng bao nhiêu thế hệ Kitô hữu. Cộng đoàn tín hữu chỉ là “đoàn chiên nhỏ bé”, không trình độ, không giàu có, không địa vị, nhiều thời kỳ còn chịu biết bao bách hại và bị loại trừ, nhưng vẫn sống đức tin vững vàng và tràn trề niềm hy vọng Phục sinh. Người Kitô hữu Việt Nam yêu mến thánh lễ, siêng năng tham dự thánh lễ và lãnh nhận các bí tích. Ngay trong cảnh cô đơn của ngục tù, trong đau đớn của thể xác bị tra tấn, con cái Giáo hội vẫn sống nhờ “năm chiếc bánh và hai con cá”, nhờ “ba giọt rượu và một giọt nước được cử hành mỗi ngày trong lòng bàn tay. Đó là bàn thờ của tôi, là nhà thờ chính toà của tôi. Thánh lễ là phương dược chữa xác cứu hồn, là thang thuốc trường sinh bất tử” (Kinh nghiệm của vị Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận).

    Tuy nhiên, nhìn vào thực tế của các buổi cử hành phụng vụ tại các nhà thờ Việt Nam hiện nay, có lẽ ai cũng thấy một vấn đề cấp bách được đặt ra, đó là cần canh tân phụng vụ để các tín hữu thực sự được nuôi sống bằng lương thực thần linh. Việc canh tân không chỉ dừng lại ở bình diện nghi thức, nhưng phải làm sao để hơi thở sự sống của Chúa Thánh Thần thấm vào hồn người cử hành cũng như người tham dự. Nếu không có Thánh Thần, Phúc Âm chỉ là chữ viết vô hồn, phụng vụ chỉ là nghi thức hồi tưởng. Nhưng nếu có Thánh Thần, Phúc Âm mới là Lời sự sống, và phụng vụ sẽ là cuộc gặp gỡ và kết hợp với Đức Kitô phục sinh.

    3) Giáo hội thánh thiện của các tội nhân

    Một khía cạnh khác của chiều kích mầu nhiệm là sự thánh thiện của Giáo hội. Trong kinh Tin Kính, Giáo hội được tuyên xưng là thánh thiện. Nhưng trong thực tế, các tín hữu lại là những tội nhân. Có người nói: “Giáo hội thánh thiện của các tội nhân”. Thực ra, Giáo hội thánh thiện là đối tượng của đức tin: “Tôi tin Giáo hội thánh thiện”. Sự thánh thiện của Giáo hội không phải là kết luận của một cuộc thống kê mang tính xã hội học, nhưng là một lời tuyên xưng, không dựa trên yếu tố hữu hình, nhưng dựa vào chính Thiên Chúa.

    Quả vậy, Giáo hội là thánh, vì Đức Kitô “đã yêu thương Giáo hội như Hiền thê mình và đã hiến thân để thánh hoá Giáo hội. Người đã kết hợp Giáo hội với Người như thân thể mình và ban cho Giáo hội đầy tràn Thánh Thần”[21]. Ngoài ra, Giáo hội là thánh vì được trang bị các phương tiện để thánh hoá thế gian. “Sự thánh thiện này là bất khả khuyết”[22].

    Chân lý trên có lẽ không một tín hữu nào phủ nhận. Nhưng vấn đề đặt ra là ở bình diện những con người mang danh môn đệ Đức Kitô. Các Kitô hữu đã lãnh nhận phép Rửa, nên “thực sự trở nên con cái Thiên Chúa và được thông phần vào bản tính thần linh, và do đó, thật sự đã trở nên thánh”[23]. Sự hiện diện của Thánh Thần tình yêu trong tâm hồn các môn đệ chính là nguyên lý và động lực của sự thánh thiện nơi Giáo hội[24]. Tuy nhiên, không một Kitô hữu nào không có tội. Đó là một thực tế không thể chối cãi.

    Thật ra sự thánh thiện của Giáo hội không phải là một tình trạng tĩnh, nhưng là một tiến trình liên tục trở về hiệp thông với Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu và trong Thánh Thần. Giáo hội là thánh không những vì Giáo hội là cộng đoàn các thánh nhờ ân sủng thánh hoá của bí tích rửa tội, hay vì các Kitô hữu đã không hề phạm tội và đã sống các nhân đức Kitô giáo cách tuyệt hảo như Đức Trinh Nữ Maria Vô nhiễm, nhưng Giáo hội còn là thánh vì là cộng đoàn các Kitô hữukhông ngừng quyết tâm không phạm tội nữa, đó là cộng đoàn biết hoán cải vì đã phạm tội. Chỉ “Đức Kitô là thánh thiện, vô tội, tinh tuyền, không hề phạm tội, chỉ đến để đền tội lỗi dân chúng, còn Giáo hội, vì ôm ấp những kẻ có tội trong lòng, nên vừa thánh thiện vừa phải luôn thanh tẩy mình. Do đó Giáo hội luôn thực hiện việc sám hối và canh tân”[25].

    Sự thánh thiện của Giáo hội mang đặc tính cánh chung của ơn cứu chuộc. Giáo hội còn đang lữ hành, nên sự thánh thiện của Giáo hội có tính biện chứng giữa rồi và chưa, giữa quá khứ và tương lai. Giáo hội không ngừng quay lưng lại với quá khứ tội lỗi để hướng về tương lai thánh thiện, cho tới khi nào, nhờ ân sủng tối hậu của Thiên Chúa, Giáo hội hoàn toàn dứt bỏ được quá khứ tội lỗi ấy, và bấy giờ tương lai thánh thiện vẫn mong chờ sẽ trở thành hiện tại vĩnh cửu không hề mất.

    Hơn nữa, sự thánh thiện của Giáo hội trước hết là một quà tặng của Thiên Chúa. Giáo hội không thánh thiện do tự mình. Yếu tố tiên quyết của sự thánh thiện tuỳ thuộc vào tác động cứu chuộc của Thiên Chúa chứ không phải ở thái độ của con người. Ấn tín rửa tội chính làmột ân huệ của Thiên Chúa, và ấn tín ấy luôn tồn tại bất chấp sự bất trung của con người. Khi tuyên xưng Giáo hội là thánh thiện, cho dù thực tế có muôn ngàn tội lỗi trong Giáo hội, ta muốn công bố rằng tình thương của Thiên Chúa mạnh hơn tội lỗi và sự chết. Thiên Chúa không ngừng tỏ lộ tình yêu cứu độ bất chấp tất cả những yếu hèn của con người, không ngừng đón nhận đứa con hoang đàng trở về để thánh hoá và đổi mới nó. Ngài không quản ngại dùng những bàn tay dơ bẩn bất xứng của con người để đón nhận tình yêu của Ngài được ban cho ta nhờ Thánh Thần.

    Do đó, “Giáo hội trên mặt đất đã được trang điểm bằng sự thánh thiện đích thực, tuy chưa hoàn toàn”[26]. Người Kitô hữu cần xác tín về chân lý này để không bao giờ thất vọng hoặc mặc cảm trước thực tế đôi khi rất đau lòng đang từng ngày diễn ra nhiều nơi trong lòng Giáo hội. Hơn nữa, xác tín ấy chính là lời mời gọi mọi thành phần Dân Chúa nỗ lực nên thánh để góp phần làm cho Hiền thê của Đức Kitô ngày càng “xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền” (Ep 5, 27). Thế giới càng có nhiều tội lỗi, các Kitô hữu càng cần giữ phẩm chất muối và ánh sáng của Đức Kitô thì mới có thể chu toàn sứ mạng thánh hoá thế giới. Ưu tiên hàng đầu của các Kitô hữu tại Việt Nam phải là nên thánh, là “trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và trở nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà, sa đoạ. Giữa thế hệ đó, [chúng ta] phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2, 15).

    Tuy nhiên, Giáo hội luôn noi gương Đức Kitô, Đấng Thánh của Thiên Chúa, đã chia sẻ kiếp sống khốn cùng của con người và đã mang lấy tội lỗi của nhân loại. Người không cho lửa từ trời thiêu đốt những kẻ bất xứng (x. Lc 9, 51-55), không cho phép nhổ cỏ lùng trong ruộng lúa (x. Mt 13, 24-30). Thánh thiện cũng chính là khả năng chịu đựng, nâng đỡ và gánh vác nhau. Niềm mơ ước một thế giới toàn vẹn có thể làm con người trở thành nhẫn tâm và cứng cỏi với người khác. Lòng nhân từ của Giáo hội phải là quê hương và niềm hy vọng cho nhân loại.

    Kết luận

    Tính cách mầu nhiệm của Giáo hội quả là một nghịch lý. Thực ra không phải thực tại Giáo hội tạo nên sự phức tạp, nhưng là chính Đức Kitô, Con Thiên Chúa đã trở nên con người hữu hạn. Nhưng nói cho cùng, cũng không phải Đức Kitô tạo nên vấn đề, nhưng là chính Thiên Chúa, Đấng siêu phàm vượt trên mọi tư tưởng và đường lối của con người. Ai thực sự tin vào Thiên Chúa thì cũng tin vào Đức Kitô, và ai tin Đức Kitô của Tin Mừng thì cũng chấp nhận tất cả sự phức tạp trong đặc tính thần nhân của Giáo hội.



    + Giuse Nguyễn Năng

    Giám mục Giáo phận Phát Diệm

  4. #4
    giotrendong's Avatar
    Trạng thái :   giotrendong đã thoát
    Tham gia : Aug 2010
    Bài gửi : 71
    Tên thật:
    ham chơi
    Đến từ: Đồng cỏ xanh
    Sở thích: sinh hoạt, ăn 1 lần 10 cây kem và 4 phần chả lụi,......chơi thể thao xả stresss...
    Nghề nghiệp: thiếu nhi
    Cảm ơn
    229
    Được cảm ơn 458 lần
    trong 75 bài viết
    Tham luận của ĐGM Phaolô Nguyễn Thái Hợp

    MẦU NHIỆM GIÁO HỘI



    Suốt hai ngàn năm qua, các Kitô hữu đã thể hiện niềm tin qua nhiều cách thế sống, hình thức diễn tả, cơ cấu tổ chức và mô hình Giáo hội khác nhau. Mỗi mô hình này hàm chứa một quan niệm thần học và một đường hướng mục vụ, cũng như cũng đưa ra một mô hình riêng về Giáo hội, cũng như một cố gắng cụ thể của các tín hữu để thực ơn gọi Kitô hữu trong những bối cảnh văn hoá, chính trị, xã hội, kinh tế riêng biệt.

    Công cuộc canh tân và thích nghi của công đồng Vatican II đã bắt đầu với một cái nhìn mới về "mầu nhiệm Giáo hội" trong đó quan niệm Giáo hội như "Dân Thiên Chúa" được đặc biệt đề cao. Cuộc canh tân mà "Đại hội Dân Chúa Việt Nam" muốn thực hiện cũng phải khởi đi từ một cái nhìn mới và đúng đắn về Giáo hội. Đề cương Giáo hội tại Việt Nam đã chọn mô hình Giáo hội: Mầu Nhiệm - Hiệp Thông - Sứ Vụ.

    Xin góp một vài ý nhỏ chung quanh đề tài "Mầu nhiệm Giáo hội" và "Cộng đồng Dân Chúa".


    1- Mô hình Giáo hội tiền Vatican II

    Nhìn tổng quát, từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XX, hai mô hình chiếm vị trí ưu tiên trong Giáo hội học là "mô hình kim tự tháp” và “Xã hội hoàn hảo”.

    Trong nhiệt tâm chống lại Phong trào Cải cách và sự can thiệp quá đáng của Nhà nước vào sinh hoạt nội bộ của Giáo Hội, một số nhà thần học Công giáo thường trình bày Giáo Hội như một “Xã hội hoàn hảo”, nghĩa là tổ chức đích thực, một chủ thể quyền bính, một pháp nhân, có đầy đủ quyền tự quyết và tự trị như bất cứ vương quốc trần gian hay xã hội dân sự nào khác. Người ta đề cao yếu tố pháp lý hơn yếu tố bí tích, nhấn mạnh đến cơ chế hơn chiều kích mầu nhiệm, thánh thiêng của Giáo hội.

    Mô hình kim tự tháp triệt để tôn vinh hàng giáo phẩm. Hồng y Noberto Bellarmino đã viết như sau: “Giáo Hội là một cộng đồng các tín hữu, được kết hợp do việc tuyên xưng niềm tin Kitô giáo, do việc lãnh nhận các bí tích, dưới quyền lãnh đạo của các mục tử hợp pháp, và, trên hết, của vị Đại diện duy nhất của Chúa Kitô trên trần gian, Đức Giáo chủ Roma”[1]. Việc đề cao quyền tối thượng tuyệt đối của Đức Thánh Cha được coi là một lợi khí để chống lại phong trào Cải cách và để canh tân Giáo hội.

    Một số tác giả không ngần ngại quả quyết rằng Đức Kitô đã lập Giáo Hội như một xã hội phẩm trật, hoàn thiện và quân chủ. Bản văn của Công đồng Vatican I là một dẫn chứng điển hình: “Giáo hội của Đức Kitô không phải là một xã hội gồm các phần tử bình đẳng, làm như thể là tất cả các tín hữu đều có những quyền như nhau; trái lại, đó là một xã hội bất bình đẳng, và điều đó không chỉ có nghĩa là trong số các tín hữu có những người là giáo sĩ, có những người là giáo dân, mà nhất là vì trong Giáo hội, Chúa đã thiết đặt một quyền mà một số người đã nhận được để thánh hóa, dạy dỗ và cai quản, trong khi những người khác không có quyền ấy”[2].

    Lá thư của đức Leô XIII gởi Tổng Giám mục giáo phận Tours, vào năm 1888, một lần nữa lặp lại quan niệm thần học này: “Trên thực tế, ta nhận thấy rõ ràng và thường xuyên rằng trong Giáo Hội đương nhiên có hai giai cấp: chủ chăn và con chiên, nghĩa là những người lãnh đạo và những người thường dân. Giai cấp thứ nhất có nhiệm vụ dạy dỗ, cai quản và hướng dẫn cách sống cho mọi người, và đặt ra lề luật. Giai cấp thứ hai phải phục tùng giai cấp thứ nhất: vâng lời họ, thi hành lệnh và tôn vinh họ”.

    Vào giữa thế kỷ XX, Đức Piô XII vẫn còn diễn tả mối tương quan giữa giáo sỹ với giáo dân trong lòng Giáo Hội theo chiều hướng này: “Theo ý muốn của Thiên Chúa, các Kitô hữu được chia làm hai bậc: giáo sĩ và giáo dân. Cũng do ý muốn của Ngài, trong Giáo Hội có hai loại quyền bính: quyền thánh chức và quyền tài phán. Hơn nữa, do kế hoạch của Thiên Chúa, con người tiến tới thánh chức – nghĩa là được gia nhập vào phẩm trật giám mục, linh mục và thừa tác viên – do việc chịu chức thánh. Riêng quyền tài phán, chiếu theo luật Chúa, được trực tiếp trao phó cho Đức Giáo chủ và, cũng chiếu theo luật đó, cho cả các giám mục nữa, nhưng phải qua trung gian của vị kế nhiệm thánh Phêrô”.

    Trong mô hình Giáo hội đó, dĩ nhiên vai trò và sứ vụ của giáo dân hoàn toàn bị quên lãng, không hề được nhắc đến. Trên thực tế, người giáo dân bình thường chẳng hề có một vai trò và vị thế nào trong Giáo Hội. Về vấn đề này, Hồng y Gasquet kể một giai thọai dí dỏm: Ngày kia, vào giai đoạn tiền Công đồng Vatican II, một người dự tòng hỏi một linh mục Công giáo về vai trò của giáo dân trong lòng Giáo hội. Vị linh mục điềm nhiên trả lời: Giáo dân có ba vị thế trong Giáo Hội: thứ nhất, quỳ gối trước bàn thờ; thứ hai, ngồi trên ghế; thứ 3, thưa amen sau các lời nguyện. Và Hồng y hóm hỉnh nói thêm: người ta đã quên mất một vai trò quan trọng khác: móc ví lấy tiền... để công đức cho nhà thờ.

    2- Đường hướng của Vatican II

    Khi triệu tập Công đồng Vatican II, đức Gioan XXIII muốn làm một cuộc canh tân đích thực để Giáo Hội có khả năng loan báo Tin Mừng một cách hữu hiệu cho con người và thời đại hôm nay. Ngài ước mong Công đồng sẽ khai mở một mùa xuân mới và mời gọi các Kitô hữu sáng suốt nhận diện “những dấu chỉ thời đại”, những dấu chỉ của hy vọng, bất chấp những khó khăn và mây mù hiện tại.

    Trong bài diễn văn bế mạc khoá I của Công đồng, Đức Gioan XXIII ước mong “Công đồng sẽ đích thực là ‘lễ Hiện Xuống mới’, làm cho Giáo hội được triển nở trong nguồn năng lực nội tại và mở rộng ra tất cả mọi lãnh vực của hoạt động nhân loại. Sẽ là một bước nhảy vọt của triều đại Đức Kitô trong thế giới, một tái xác quyết (...) có tính thuyết phục hơn Tin mừng cứu độ, sự loan báo rạng ngời về quyền tối thượng của Thiên Chúa, về tình huynh đệ nhân loại trong bác ái, về hứa hẹn hoà bình dưới trần thế cho những người thiện tâm”[3].

    Tuy nhiên, lược đồ đầu tiên của “Hiến chế tín lý về Giáo hội”, do tiểu ban chuẩn bị công đồng soạn thảo, hoàn toàn không phản ảnh thao thức, ước vọng và hướng đi mà đức Gioan XXIII đã vạch ra. Nền tảng Giáo hội học của lược đồ này vẫn là quan điểm một Giáo hội học theo mô hình cũ, nhấn mạnh quá đáng đến yếu tố pháp lý, đầy giáo sĩ tính, trong khi đó chiều kích huyền nhiệm và ngôn sứ lại quá mờ nhạt.

    Tại phiên họp khoáng đại của Công đồng, lược đồ này bị phê phán gắt gao và được trả về cho uỷ ban soạn thảo. Một lược đồ thứ hai ra đời và đệ trình các nghị phụ vào mùa hè năm 1963. Lược đồ mới rút gọn vào bốn chương:

    (I) Mầu nhiệm Giáo hội.

    (II) Cơ cấu phẩm trật Giáo Hội, đặc biệt chức Giám mục

    (III) Cộng đồng Dân Thiên Chúa, đặc biệt về giáo dân;

    (IV) Lời mời gọi nên thánh trong Giáo Hội.

    Kể từ ngày 1 tháng 10 năm 1963, Công đồng thảo luận sôi nổi về mô hình Giáo hội và lược đồ kể trên bị loại bỏ. Hồng y L. Suenens, với tư cách là thành viên của Uỷ ban điều hành công đồng, đã làm một “cuộc cách mạng Copernic về Giáo Hội học”: Nếu trong mô hình trước đây, trục chính của Giáo hội là Cơ cấu phẩm trật thì từ nay là chính cộng đồng Dân Chúa. Vì vậy, chương III sẽ được chia thành hai phần: một phần mang tựa đề “Cộng đồng Dân Chúa” đề cập đến căn tính chung của tất cả các thành viên của Giáo Hội và sẽ là chương II; chương II cũ sẽ trở thanh chương III; còn phần mang tựa đề “Người Giáo dân” sẽ là chương IV, đề cập đặc biệt đến vai trò của Kitô hữu giáo dân. Kể từ đó, đề tài “Cộng đồng Dân Chúa” được sát nhập vào lược đồ của Hiến chế tín lý về Giáo Hội như một chương đặc biệt, nằm giữa chương I nói về huyền nhiệm của Giáo Hội và các chương kế tiếp đề cập đến sự khác biệt về trách vụ của các Kitô hữu. Nội dung cuối cùng của Hiến chế là:

    I- Mầu nhiệm Giáo hội. II- Dân Thiên Chúa. III- Hàng Giáo phẩm….IV- Giáo dân. V- Ơn gọi nên thánh. VI- Tu sĩ. VII- Giáo hội lữ hành.. VIII- Đức Maria trong mầu nhiệm Đức Kitô và Giáo hội.

    Để hiện diện và loan báo Tin Mừng cho nhân loại, dĩ nhiên Giáo Hội cần những cơ cấu tổ chức hữu hình, nhưng Giáo Hội không thể tương đồng với bất cứ tổ chức xã hội, kinh tế hay chính trị nào khác. Lý do đơn giản là Giáo Hội được hình thành từ ý định muôn đời của Thiên Chúa và được Chúa Thánh Thần đồng sáng lập với Chúa Kitô.

    Hiến chế “Ánh sáng muôn dân” đã dành trọn chương I để diễn tả ý nghĩa thần học của Giáo hội: “Mầu nhiệm Giáo hội biểu lộ trong chính việc thành lập. Thực thế, Đức Giêsu đã khai sinh Giáo hội qua việc rao giảng Tin Mừng, loan báo sự tới đến của Nước Thiên Chúa, như đã hứa hẹn trong Kinh Thánh từ ngàn xưa (…). Nước này xuất hiện đối với mọi người qua lời nói, hành động và sự hiện diện của Đức Kitô (…). Các phép lạ của Người chứng thực rằng Nước Thiên Chúa đã thực sự đến trần gian (…). Nhưng trước hết, Nước này biểu lộ trong chính bản thân Đức Kitô, con Thiên Chúa và Con loài người, Đấng đã đến ‘để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc muôn dân”[4].

    Giáo Hội không phải là một cộng đồng như bất cứ cộng đồng nhân loại nào, mà là một cộng đồng đặc biệt. Đây chính là “Dân Thiên Chúa có Đức Kitô làm Thủ lãnh (...), có phẩm giá và sự tự do hào hùng của con cái Chúa, mà tâm hồn của họ là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Luật của họ là điều răn mới, giới răn yêu thương như chính Đức Kitô đã yêu chúng ta (xc Ga 13,34). Sau cùng, cứu cánh của họ chính là Nước Thiên Chúa, đã được Người khai mở trên trần gian và tiếp tục phát triển cho đến ngày thế mạt”[5].

    Giáo hội được kết thành bởi các yếu tố khác biệt nhau, nhưng luôn bổ sung cho nhau và bất khả phân ly, vừa nhân loại vừa thần thiêng: đây là một “Giáo hội thánh thiêng, một cộng đoàn của niềm tin, hy vọng và bác ái” xuất hiện ở trần gian “như một cơ cấu hữu hình”, đồng thời vừa là một “xã hội tổ chức theo phẩm trật” vừa là “Nhiệm thể Đức Kitô”, vừa là “đoàn thể hữu hình” vừa là “cộng đồng thiêng liêng”, vừa là “Giáo hội tại thế” vừa là “Giáo hội tràn đầy ân sủng trên trời”[6].

    Thay vì những định nghĩa nặng nề tính chất pháp lý, Công đồng đã trình bày Giáo Hội bằng nhiều hình ảnh biểu tượng, hàm chứa trong Thánh kinh và thánh truyền. Chiều kích mầu nhiệm và vai trò của Chúa Thánh Linh được đặc biệt đề cao. Do tính độc đáo của nó, quan niệm Giáo Hội như Dân Thiên Chúa được đặc biệt đề cao: Giáo Hội là cộng đồng Dân Chúa, bao gồm những người đã gia nhập vào Thân thể Nhiệm mầu của Đức Kitô qua bí tích Thánh tẩy: “Thực vậy, tất cả những ai tin nơi Đức Kitô đều được tái sinh không phải bởi mầm có thể huỷ diệt, nhưng do mầm bất diệt nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống (xc. 1 Pr 1,23), không phải bởi xác thịt nhưng do nước và Thánh thần (xc. Ga 3,5-6) và trở thành “một giống nòi được thu phục, mà trước kia chưa phải là một dân, nay là Dân Thiên Chúa”(1Pr 2,9-10)[7].

    Tất cả các thành viên của Giáo hội có “chung một phẩm giá vì được tái sinh trong Đức Kitô, cùng một ân huệ được làm con, một lời mời gọi nên hoàn thiện, một ơn cứu độ, một niềm hy vọng duy nhất và một đức ái không phân chia”. Tất cả đều được tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Đức Kitô. Những khác biệt về thừa tác vụ trong Giáo hội đều do nhu cầu của cộng đồng Dân Chúa và nhằm mục đích phục vụ cộng đồng mà thôi.

    3- Vài đề nghị

    a)- "Tài liệu làm việc" viết một cách lạc quan rằng "các tín hữu tại Việt Nam vẫn luôn xác tín Giáo hội là Dân Thiên Chúa, là Thân Mình Đức Kitô... Cách nào đó, có thể nói họ đã sống trước những điều Giáo hội sẽ minh định trong các văn kiện công đồng". Một số người khác lại cho rằng mô hình Giáo hội ở Việt Nam hôm nay vẫn mang nặng dấu ấn của những mô hình Giáo hội thời trước công đồng Vatican II, nghĩa là nặng tính chất cơ cấu, pháp lý và theo mô hình kim tự tháp. Đã đến lúc cần giảm thiểu yếu tố hình thức để đào sâu mầu nhiệm Giáo hội và vai trò của Thánh Linh.

    Nhiều người đề nghị trong Đại hội Dân Chúa Việt Nam này, Giáo hội Việt Nam nên chân thành nhìn lại chính mình, cố gắng thực hiện cuộc canh tân mà Vatican II đã khai mở, can đảm đưa ra những cải cách hữu hiệu để thực hiện sự bình đẳng, hiệp thông và sứ vụ trong Giáo hội. Đặc biệt, cần thiết những giải pháp rõ rệt để "trong Dân Thiên Chúa, các tín hữu thật sự bình đẳng trong phẩm giá, được chia sẻ cùng một ơn gọi làm con cái Thiên Chúa, có cùng một căn tính Kitô hữu".

    Việc chọn lựa định hướng mục vụ “Đối thoại thẳng thắn và cộng tác chân thành” giữa Giáo hội với xã hội đòi hỏi Giáo hội phải đổi mới cơ cấu tổ chức, đường lối tư duy và cách thế hành động để có cơ quan đảm nhiệm tiến trình đối thoại, điều hành và thúc đẩy nó. Cần thiết những “kênh” chính thức và thường xuyên để hiện thực công tác khó khăn này.

    Tuy nhiên, để cuộc đối thoại với bên ngoài được kết quả, cần phải có cuộc đối thoại bên trong giữa các thành phần Dân Chúa, đặc biệt giữa hàng giáo phẩm với giáo dân. Phải chăng cuộc khủng hoảng hiện nay của Giáo hội chúng ta là vì thiết cuộc đối thoại trong lòng Giáo hội?



    b)- Về lãnh vực văn hóa, TLLV ý thức rõ rệt mối tương quan tự nhiên và mật thiết giữa loan báo Tin Mừng và hội nhập văn hóa, bởi vì Nước Thiên Chúa đến với những con người được nối kết sâu xa với một nền văn hóa nào đó. Do đó, “Giáo hội tại Việt Nam nhận ra rằng quê hương là chiếc nôi trong đó ơn gọi Kitô hữu tăng trưởng và người tín hữu sống đức tin trong tinh thần đồng hành với tất cả anh chị em trong cộng đồng dân tộc”.

    Hoàn toàn đồng ý với kế hoạch đề cao văn hóa dân tộc trong việc đào tạo chủng sinh, tu sĩ và giáo lý viên. Bởi vì, hội nhập văn hóa là một cuộc đối thoại sống động giữa Tin Mừng với con người trong mỗi giai đoạn lịch sử. Nó đòi hỏi niềm tin Kitô giáo phải được sống, diễn tả và cử hành bằng những chất liệu, tâm tình, yếu tố văn hóa của mỗi dân tộc vào một thời điểm lịch sử nhất định. Vì vậy, nó không đơn giản là chuyện dịch thuật, chuyển từ tiếng Latinh sang tiếng Việt mà thôi.

    Để thực hiện điều này chúng ta phải có những chuyên viên vừa thông thạo về thần học, vừa am tường văn hóa dân tộc. Đại hội Dân Chúa nên có chương trình cụ thể nào nhằm đào tạo các chuyên viên đó trong một tương lai gần.

    Đã đến lúc phải đặt trọng tâm cho sứ vụ loan báo Tin Mừng. Cần mạnh dạn ra khỏi “ghetto Công giáo” để mở rộng cánh cửa ra xã hội, đào sâu vào văn hóa dân tộc và làm cho Tin Mừng chiếu dọi vào mọi lãnh vực của cuộc sống, đặc biệt là lãnh vực văn hóa. Câu phát biểu của đức Gioan Phaolô II rất đáng cho chúng ta suy nghĩ: “Một đức tin mà chưa biến thành văn hóa, là đức tin chưa được đón nhận trọn vẹn, chưa thực sự suy tư, chưa sống một cách chân thành”.

    + Phaolô Nguyễn Thái Hợp

    Giám mục Giáo phận Vinh

  5. #5
    giotrendong's Avatar
    Trạng thái :   giotrendong đã thoát
    Tham gia : Aug 2010
    Bài gửi : 71
    Tên thật:
    ham chơi
    Đến từ: Đồng cỏ xanh
    Sở thích: sinh hoạt, ăn 1 lần 10 cây kem và 4 phần chả lụi,......chơi thể thao xả stresss...
    Nghề nghiệp: thiếu nhi
    Cảm ơn
    229
    Được cảm ơn 458 lần
    trong 75 bài viết
    Bài tham luận của Giuse Nguyễn Văn Thắng—Gp Bắc Ninh

    Đề tài: MẦU NHIỆM



    Kính thưa: Quý Đức Cha, quý Cha, quý Đại biểu, con xin được góp ý kiến nhỏ bé trình lên ĐH

    ĐỀ NGHỊ Mục Vụ I

    Số 33 /Củng cố mối Hiệp giữa tín hữu với Thiên Chúa
    Định hướng

    Để mối Hiệp Thông– thực sự tăng trưởng phải hướng cho tín hữu hiểu sâu xa rằng: Chúa đang ở rất gần chúng ta, và ở ngay trong mỗi người chúng ta. Chứ không phải quan niệm của một số người xưa nay:”Chúa đang ở trên trời, Chúa ở mãi trên tầng mây, trên chín tầng trời…Rồi Thiên Đàng ở trên trời”. Không đâu ! Thiên đàng ở ngay trong ta đó, ở ngay trong gia đình chúng ta, trong cộng đoàn chúng ta, ngay trong trái đất này. Chúa Giêsu đã thiết lập nước trời ngay ở trần gian. Nước Chúa cũng đã đến, đang đến và sắp đến. Vì ở đâu có tình bác ái yêu thương là ở đó có ân sủng Người, ở đó chứa chan niềm vui. Nếu chúng ta biết tuân giữ luật người là chúng ta đã vào nước trời. Đã đến lúc chúng ta phải phá vỡ bờ rào ngăn cách, để con cái Chúa được gần gũi Chúa hơn, biết chạy đến để gặp gỡ Ngài, đối diện với Ngài để nói chuyện, chia sẻ, tâm sự, và giãi bày với Ngài với tình cha con thân thiện, nếu được như vậy thì hiệu quả biết dường nào.

    Muốn vậy: Người Tín Hữu cần được học hiểu cho rõ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi như thế nào? Cũng như hiệu quả của việc hiệp thông giữa tín hữu với Thiên Chúa, qua đó có những phương thế tốt nhất để giúp tín hữu tăng trưởng mối hiệp thông này.

    II- Kế hoạch thực hiện :

    1. Tổ chức triển khai CHƯƠNG TRÌNH HỌC TẬP GIÁO LÝ, và Kinh Thánh từ Giáo Phận đến xứ Họ tại các nhà thờ và trường học Giáo lý. Có thể giảm bớt kinh đọc để ưu tiên cho vấn đề này và Thánh lễ. (cử hành Bí ích)

    2. Tổ chức đào tạo đều hành đội ngũ Giáo lý viên thống nhất từ Giáo phận đến Giaó xứ, thành lập trường học công giáo: Đào tạo, bồi dưỡng đức tin và huấn luyện lương tâm. Nhất là trong giới trẻ, lớp tiền, hậu hôn nhân từ cấp I đến cấp III, giúp người tín hữu luôn trau dồi, bảo vệ phẩm giá, và củng cố giữ gìn đời sống gia đình. Vì đây là cả một kho tàng quí báu của đất nước, của xã hội cũng như Giáo hội trong tương lai.

    3. Linh mục nên tổ chức các Thánh lễ riêng cho từng giới như thiếu nhi Thánh Thể, giới thanh niên tiền hôn nhân và hậu hôn nhân để lời giáo huấn của các Ngài đơm được nhiều hoa trái hơn.

    4. Để giúp tín hữu dễ thực hành Lời Chúa mỗi ngày và đem ra trải nghiệm trong đời sống. Mỗi Lời Chúa nên lấy những ví dụ, dẫn dụ cụ thể, vận dụng ngay trong đời sống hiện tại của mỗi gia đình, ở trong mỗi người Tín Hữu: những điều đã làm, chưa làm, cần phải làm nhất là những thiếu sót cần được uốn nắn, giúp họ mau lẹ được trải nghiệm nhiều hơn.

    5. Giọng truyền cảm khi giảng Lời Chúa hay sự thân thiện cũng giúp ích cho tín hữu dễ tiếp thu và xích lại gần hơn. Linh mục có thể thì nên xuống gần giáo dân để chia sẻ sẽ thêm đượm đà thân thiện, sẽ làm cho mối hiệp thông trở nên sợi chỉ xuyên thâu giữa tín hữu tới Thiên Chúa.

    6. Để mối hiệp thông luôn luôn được gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi hơn, việc tổ chức và duy trì đọc kinh chung trong gia đình là một tài sản vô giá. Để tình hiệp thông giữa tín hữu với Thiên Chúa, tín hữu với tín hữu, những thành viên trong gia đình với nhau luôn được quyện chặt và sẽ làm nảy nở sự hiệp thông như đây là dấu chỉ sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi.

    Đề Nghị Mục Vụ II: HỘI NHẬP VĂN HÓA

    1. Định Hướng: Người Việt Nam chúng ta xưa nay vẫn có và giữ được truyền thống văn hóa tốt đẹp và cao thượng như: lòng hiếu khách, nếp sống trọn nghĩa trọn tình, tình làng nghĩa xóm, tình bác ái yêu thương: (Lá lành đùm lá rách, có cả lá rách ít đùm lá rách nhiều). Ông bà cha mẹ sẵn sàng hy sinh cho tương lai con cháu và hết lòng, con cháu thảo hiền, tôn kính ông bà tổ tiên, tính cách nhẫn nhịn. ( Một nhịn chin lành). Giá trị đời sống gia đình rất được đề cao vì nó là nơi, là trường đào tạo nhân sinh và tôi luyện phẩm giá con người mà Chúa đã trao tặng. Hãy nâng niu, bảo vệ và nhân lên những bản sắc cao thượng đó. Nhưng hình như đạo đức của nền văn hóa đang có chiều hướng xuống dốc, chúng ta hãy suy nghĩ gì đây đứng trước tình thế như vậy. Nhất là giới trẻ hiện nạy.

    2.Kết hoạch thực hiện:

    Phải đưa văn hóa vào chương trình học tập - Tổ chức các cuộc giao lưu đối thoại với các tôn giáo bạn. Khuyến khích khơi dậy và làm sống lại những tập tục văn hóa cao đẹp vào các tổ chức sinh hoạt tôn giáo.

    Kính thưa Đại Hội! Trên đây là ý kiến rất nhỏ bé nhưng mong Đại Hội để tâm xem xét, cân nhắc để nguyện vọng của con cũng như toàn giáo dân giáo phận Bắc Ninh được thỏa nguyện. Lời kết, con xin kính chúc Đại Hội được ơn Chúa Thánh Thần soi sáng để Đại Hội thành công tốt đẹp

+ Trả Lời Ðề Tài

Chủ đề tương tự

  1. đáp lại lời kêu gọi của đại hội dân chúa việt nam 2010
    By bùi nhùi in forum Tài liệu - Thư chung
    Trả lời: 0
    Bài mới gửi: 02-12-2010, 11:49 AM
  2. Sứ điệp của đại hội dân chúa việt nam 2010
    By bùi nhùi in forum Bản tin Giáo Hội
    Trả lời: 0
    Bài mới gửi: 30-11-2010, 11:34 AM
  3. Nhật ký Đại Hội Dân Chúa Việt Nam 2010
    By Mai Cồ in forum Bản tin Giáo Hội
    Trả lời: 2
    Bài mới gửi: 25-11-2010, 03:35 PM
  4. Hướng Tới Đại Hội Dân Chúa Việt Nam ngày 21-25.11.2010
    By allihavetogive in forum Bản tin Giáo Hội
    Trả lời: 0
    Bài mới gửi: 19-11-2010, 08:38 AM
  5. Trả lời: 0
    Bài mới gửi: 10-09-2010, 11:32 PM

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình